Mục lục bài viết
- 1. Trách nhiệm tiếp nhận thông báo về quảng cáo xuyên biên giới vi phạm pháp luật
- 2. Nội dung cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới phải thông báo cho Bộ Thông tin và Truyền thông là gì?
- 3. Trong trường hợp nào cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới phải báo cáo cho Bộ Thông tin và Truyền thông?
1. Trách nhiệm tiếp nhận thông báo về quảng cáo xuyên biên giới vi phạm pháp luật
Theo quy định tại Điều 14 Nghị định 181/2013/NĐ-CP, được sửa đổi bởi khoản 2 Điều 1 Nghị định 70/2021/NĐ-CP, cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận, xử lý các thông báo về quảng cáo xuyên biên giới vi phạm pháp luật là Bộ Thông tin và Truyền thông. Cụ thể: Các bộ, ngành, địa phương có trách nhiệm phát hiện và xác định các quảng cáo xuyên biên giới vi phạm pháp luật theo thẩm quyền được phân công tại các quy định pháp luật về quản lý và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quảng cáo.
Bộ Thông tin và Truyền thông là cơ quan tiếp nhận các thông báo về quảng cáo xuyên biên giới vi phạm pháp luật từ các bộ, ngành, địa phương và là đầu mối liên hệ, gửi yêu cầu xử lý quảng cáo vi phạm pháp luật cho tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới.
Theo quy định tại Điều 14 của Nghị định 181/2013/NĐ-CP, được sửa đổi bởi khoản 2 Điều 1 của Nghị định 70/2021/NĐ-CP, cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận các thông báo về vi phạm pháp luật trong lĩnh vực quảng cáo xuyên biên giới là Bộ Thông tin và Truyền thông. Điều này đảm bảo vai trò quan trọng của Bộ trong việc kiểm soát và quản lý hoạt động quảng cáo xuyên biên giới, nhằm đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật và bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng.
Ngoài việc tiếp nhận thông báo về vi phạm, Bộ Thông tin và Truyền thông còn đóng vai trò là đầu mối liên lạc giữa các tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới và các cơ quan chức năng trong việc xử lý vi phạm. Điều này đảm bảo sự liên kết và tương tác hiệu quả giữa các bên liên quan, từ việc xác định vi phạm cho đến thực hiện các biện pháp xử lý.
Khi nhận được thông báo về vi phạm, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ xem xét, đánh giá và nắm bắt đầy đủ thông tin về hành vi vi phạm. Sau đó, Bộ sẽ liên hệ với tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới liên quan, thông báo vi phạm và yêu cầu họ thực hiện các biện pháp xử lý hợp lý, tuân thủ quy định pháp luật.
Trong quá trình liên lạc và gửi yêu cầu xử lý, Bộ Thông tin và Truyền thông cũng có trách nhiệm cung cấp thông tin, hướng dẫn và hỗ trợ cho tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới để đảm bảo họ hiểu rõ về việc xử lý vi phạm và tuân thủ quy định pháp luật.
Với vai trò này, Bộ Thông tin và Truyền thông đóng góp quan trọng vào việc xây dựng một môi trường quảng cáo lành mạnh, công bằng và đúng pháp luật. Đồng thời, việc thực hiện các biện pháp xử lý vi phạm sẽ tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, đồng thời góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành quảng cáo xuyên biên giới.
2. Nội dung cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới phải thông báo cho Bộ Thông tin và Truyền thông là gì?
Các tổ chức và cá nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam có trách nhiệm tuân thủ quyền và nghĩa vụ được quy định tại Điều 13 của Luật Quảng cáo và các quy định sau đây. Để thực hiện điều này, họ phải thông báo cho Bộ Thông tin và Truyền thông về các thông tin liên quan như sau:
Các tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam tuân thủ các quyền và nghĩa vụ được quy định tại Điều 13 Luật Quảng cáo và các quy định sau:
Thông báo thông tin liên hệ với Bộ Thông tin và Truyền thông những nội dung sau:
Tên tổ chức, tên giao dịch, địa chỉ trụ sở chính nơi đăng ký hoạt động cung cấp dịch vụ quảng cáo; địa điểm đặt hệ thống máy chủ chính cung cấp dịch vụ và hệ thống máy chủ đặt tại Việt Nam (nếu có);
Đầu mối liên hệ: tên tổ chức, cá nhân đại diện tại Việt Nam (nếu có), địa chỉ email, điện thoại liên hệ;
Hình thức và thời gian thông báo: 15 ngày trước khi bắt đầu kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam, các tổ chức, cá nhân nước ngoài gửi thông báo trực tiếp, hoặc qua đường bưu chính, hoặc qua phương tiện điện tử đến Bộ Thông tin và Truyền thông (Cục Phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử);
Khi nhận thông báo, cơ quan tiếp nhận có trách nhiệm gửi giấy xác nhận bằng văn bản hoặc qua phương tiện điện tử cho tổ chức, doanh nghiệp trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo
Theo quy định tại Điều 13 của Nghị định 181/2013/NĐ-CP, được sửa đổi bởi khoản 1 Điều 1 Nghị định 70/2021/NĐ-CP, các cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam có nghĩa vụ thông báo cho Bộ Thông tin và Truyền thông những thông tin sau đây:
- Tên tổ chức: Cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới cần cung cấp tên tổ chức của mình. Đây là tên chính thức được đăng ký và sử dụng trong các hoạt động kinh doanh.
- Tên giao dịch: Ngoài tên tổ chức chính thức, cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới có thể có tên giao dịch khác để sử dụng trong các hoạt động giao dịch, quảng bá và quảng cáo.
- Địa chỉ trụ sở chính nơi đăng ký hoạt động cung cấp dịch vụ quảng cáo: Cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới phải cung cấp địa chỉ trụ sở chính nơi mà tổ chức hoặc cá nhân đó đã đăng ký hoạt động cung cấp dịch vụ quảng cáo. Địa chỉ này phải được xác định rõ ràng và chính xác.
- Địa điểm đặt hệ thống máy chủ chính cung cấp dịch vụ và hệ thống máy chủ đặt tại Việt Nam: Các cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới cần cung cấp thông tin về địa điểm đặt hệ thống máy chủ chính cung cấp dịch vụ quảng cáo. Nếu họ có hệ thống máy chủ đặt tại Việt Nam, cũng cần cung cấp thông tin chi tiết về địa điểm đặt máy chủ này.
Thông qua việc cung cấp những thông tin trên đến Bộ Thông tin và Truyền thông, cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới đáp ứng yêu cầu về minh bạch và quản lý của cơ quan chức năng. Qua việc thu thập thông tin này, Bộ Thông tin và Truyền thông có thể tiến hành giám sát và xử lý các vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam. Điều này đảm bảo sự công bằng, minh bạch và bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng trong lĩnh vực quảng cáo.
3. Trong trường hợp nào cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới phải báo cáo cho Bộ Thông tin và Truyền thông?
Theo quy định tại Điều 15 của Nghị định 181/2013/NĐ-CP, được sửa đổi bởi khoản 3 Điều 1 Nghị định 70/2021/NĐ-CP, cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới có trách nhiệm báo cáo cho Bộ Thông tin và Truyền thông theo nội dung sau:
- Báo cáo của cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo trong nước hợp tác với tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam:
Báo cáo định kỳ hàng năm: Cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo trong nước phải thực hiện báo cáo hàng năm trước ngày 31 tháng 12. Báo cáo này phải được gửi cho Bộ Thông tin và Truyền thông (Cục Phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử) theo Mẫu số 01 đi kèm Nghị định này.
Báo cáo đột xuất: Nếu có yêu cầu về hoạt động cung cấp dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam, cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo trong nước cũng phải thực hiện báo cáo đột xuất cho Bộ Thông tin và Truyền thông (Cục Phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử).
- Báo cáo của Sở Thông tin và Truyền thông:
Báo cáo định kỳ hàng năm: Các Sở Thông tin và Truyền thông có trách nhiệm thực hiện báo cáo hàng năm trước ngày 31 tháng 12. Báo cáo này phải được gửi cho Bộ Thông tin và Truyền thông (Cục Phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử) theo chức năng và nhiệm vụ được phân công về quản lý hoạt động cung cấp dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam.
Theo quy định hiện hành, cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới phải tuân thủ việc báo cáo cho Bộ Thông tin và Truyền thông trong hai trường hợp sau:
+ Báo cáo định kỳ hàng năm: Cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới phải thực hiện việc báo cáo định kỳ hàng năm trước ngày 31 tháng 12. Điều này có nghĩa là họ cần tổ chức và gửi báo cáo cho Bộ Thông tin và Truyền thông đúng thời hạn này. Báo cáo này phải chứa đựng thông tin liên quan đến hoạt động cung cấp dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam. Đây là một yêu cầu bắt buộc nhằm đảm bảo tính minh bạch và quản lý hiệu quả trong lĩnh vực quảng cáo.
+ Báo cáo đột xuất: Ngoài việc báo cáo hàng năm, cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới cũng phải thực hiện việc báo cáo đột xuất khi có yêu cầu về hoạt động cung cấp dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam. Điều này có nghĩa là khi có yêu cầu từ Bộ Thông tin và Truyền thông liên quan đến hoạt động của họ, cá nhân kinh doanh phải cung cấp báo cáo một cách nhanh chóng và chính xác. Báo cáo đột xuất này giúp cơ quan chức năng có thông tin chi tiết và kịp thời để giám sát và kiểm tra hoạt động của cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới, đảm bảo tuân thủ pháp luật và đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng.
Việc báo cáo định kỳ hàng năm và báo cáo đột xuất là những quy định cần thiết để đảm bảo tính minh bạch và quản lý hiệu quả trong lĩnh vực quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam. Bằng cách thực hiện đúng quy định này, cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới đóng góp vào việc xây dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh, công bằng và bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng.
Xem thêm >> Kê khai hóa đơn thuế quảng cáo trên Google theo Công văn 296/TCT-CS
Liên hệ đến hotline 19006162 hoặc email: lienhe@luatminhkhue.vn để được tư vấn