1 – Khái quát chung về thể chế kinh doanh của Việt Nam
Thể chế có thể được hiểu là cái tạo thành khung khổ trật tự cho các quan hệ của con người, định vị cơ chế thực thi và giới hạn của các quan hệ giữa các bên tham gia tương tác; là ý chí chung của cộng đồng xã hội trong việc xác lập trật tự, những quy tắc, những ràng buộc và các chuẩn mực, giá trị chung được mọi người chia sẻ…
Môi trường thể chế được xác định là khung khổ hành chính và pháp lý điều chỉnh hành vi và các mối quan hệ giữa chính phủ, doanh nghiệp và cá nhân nhằm tạo ra thu nhập và của cải vật chất của một nền kinh tế (Diễn đàn Kinh tế thế giới WEF- Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2009/2010).
Như vậy, có thể thấy được 3 yếu tố chính trong nội hàm của khái niệm thể chế kinh doanh gồm: (1) Hệ thống pháp luật về kinh doanh, các quy tắc xã hội điều chỉnh các mối quan hệ kinh doanh và các hành vi kinh doanh được pháp luật thừa nhận của một quốc gia; (2) Các chủ thể thực hiện và quản lý hệ thống kinh doanh (bao gồm nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức xã hội dân sự); (3) Các cơ chế, phương pháp, thủ tục thực hiện hoạt động kinh doanh, quản lý và điều hành hệ thống kinh doanh.
Vai trò của thể chế phụ thuộc lớn vào chất lượng của khung khổ pháp luật; sự can thiệp của chính phủ vào thị trường, mức độ tự do hóa và hiệu quả hoạt động của thị trường. Tình trạng quan liêu hay can thiệp quá mức, tham nhũng, tình trạng thiếu trung thực trong thực hiện các hợp đồng mua sắm công, hoặc thiếu minh bạch, công khai, sự phụ thuộc lớn của hệ thống tư pháp có thể khiến chi phí kinh doanh trở nên đắt đỏ và cản trở phát triển kinh tế.
.
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi: 1900.6162
Mặc dù bức tranh kinh tế tập trung phản ánh lĩnh vực thể chế công, thể chế tư cũng có vai trò rất quan trọng trong phát triển sản xuất kinh doanh, tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay với sự sụp đổ của hàng loạt công ty chủ yếu liên quan tới vấn đề kế toán và sự thiếu minh bạch trong quản lý, điều hành công ty. Việc không bảo đảm quy chuẩn và sự gian lận của các công ty làm mất lòng tin của người tiêu dùng và nhà đầu tư. Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển lành mạnh nếu hoạt động kinh doanh diễn ra một cách trung thực, được quản lý tốt bởi những quy định và tiêu chuẩn đạo đức kinh doanh. Sự minh bạch của thể chế tư là không thể thiếu trong kinh doanh và chúng có thể được bảo đảm thông qua một hệ thống chuẩn mực kế toán, kiểm toán trung thực và mọi đối tác liên quan đều có thể tiếp cận thông tin.
Trong khi thể chế kinh doanh tạo ra khung khổ, trật tự bảo đảm cho sự vận hành và hoạt động của hệ thống kinh doanh nhằm đạt được những mục tiêu đã định thì những tiêu chí cụ thể về môi trường kinh doanh chính là thước đo, là sự phản ánh trung thực về chất lượng, năng lực và sự phù hợp của thể chế với thực tiễn kinh doanh. Môi trường kinh doanh tốt hay xấu, thuận lợi hay khó khăn, được hỗ trợ hay bị cản trở đều phản ánh trung thực năng lực, chất lượng và trình độ của thể chế. Chính vì vậy, khi đánh giá về thể chế kinh doanh người ta thường sử dụng các hệ thống tiêu chí cụ thể về môi trường kinh doanh làm công cụ để lượng hóa các tác động của thể chế đến hoạt động kinh doanh. Điều này được phản ánh trong các khái niệm về các chỉ số môi trường kinh doanh như chỉ số năng lực cạnh tranh của WEF, chỉ số môi trường kinh doanh của Ngân hàng Thế giới, chỉ số về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh/thành trong Đề án năng lực cạnh tranh của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam …
2 – Thực trạng thể chế kinh doanh hiện nay của Việt Nam
Trong quá trình cải cách kinh tế thị trường của Việt Nam thời kỳ đổi mới, bằng việc ban hành mới và điều chỉnh, bổ sung các luật về kinh doanh, như Luật Cạnh tranh (năm 2000), Luật Doanh nghiệp (năm 2005), Luật Đầu tư (năm 2005), Luật Thương mại (năm 2005), Luật Sở hữu trí tuệ (năm 2005), Luật Thuế thu nhập cá nhân (năm 2007), Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (năm 2008), Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (năm 2008)…, có thể nói rằng hệ thống pháp luật về kinh doanh đã tương đối đầy đủ và đồng bộ, bảo đảm cơ sở pháp lý để mở rộng các quyền về tự do kinh doanh cho tất cả các thành phần kinh tế. Tất cả các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đều được tự do kinh doanh những hàng hóa và dịch vụ mà pháp luật không cấm. Chính sách về gia nhập thị trường, trong đó đặc biệt là khâu thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh, đã tạo ra một bước đột phá cho sự phát triển của khu vực tư nhân. Đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN), Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực để đẩy nhanh quá trình sắp xếp và đổi mới DNNN theo các cam kết quốc tế, thực hiện đa dạng hóa các hình thức sở hữu, cắt giảm các hình thức trợ cấp không phù hợp và xóa bỏ sự phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp tư nhân trong nước và nước ngoài… Môi trường kinh doanh cho các đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được cải thiện trên nhiều mặt, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài được bình đẳng về pháp lý như các doanh nghiệp Việt Nam.
Năng lực quản lý và điều hành của Chính phủ ngày càng tốt hơn và hiệu quả hơn. Môi trường kinh doanh về cơ bản đã bảo đảm thuận lợi cho phát triển kinh doanh ở Việt Nam và xu hướng cải thiện ngày càng tốt hơn trong so sánh với môi trường các nước trong khu vực và quốc tế.
Trong thể chế công ty, tính công khai minh bạch của hệ thống cũng được cải thiện rõ rệt. Sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán và yêu cầu công khai minh bạch thông tin đối với các công ty niêm yết cùng với việc các công ty, doanh nghiệp tích cực cải cách các tiêu chuẩn về kế toán và kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế… đã góp phần đáng kể cho việc cải thiện thể chế công ty…
Tuy nhiên, do đặc điểm của một nền kinh tế chuyển đổi và kém phát triển, nhiều yếu tố của môi trường kinh doanh chưa phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường và đang trong quá trình vừa hình thành vừa hoàn thiện. Quá trình hoàn thiện thể chế kinh doanh diễn ra còn chậm so với cam kết hội nhập và mức độ tự do hóa thương mại và đầu tư. Khung khổ pháp lý vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa thực sự minh bạch và dễ dự đoán. Trên thực tế vẫn còn có sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế, hiện tượng tham nhũng còn khá phổ biến, nhiều biện pháp can thiệp của Nhà nước vào thị trường chưa thực sự hiệu quả, phân bổ nguồn lực xã hội còn tập trung chủ yếu trong các công ty nhà nước…
Trong khi đó tình trạng của thể chế công ty cũng còn nhiều bất cập, nhiều công ty hoạt động thiếu định hướng, chiến lược kinh doanh, chỉ biết chớp lấy cơ hội trước mắt, xem nhẹ đạo đức trong kinh doanh, thiếu một chế độ kế toán và kiểm toán phù hợp…
Thể chế yếu kém là nguyên nhân quan trọng khiến cho sức cạnh tranh của nền kinh tế yếu cả trên ba cấp độ quốc gia, ngành/sản phẩm và doanh nghiệp. Theo Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu của WEF năm 2009 – 2010, nền kinh tế Việt Nam vẫn ở giai đoạn phát triển thấp nhất bởi động lực tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào các yếu tố sản xuất như lao động, tài nguyên và vốn đầu tư. Trong giai đoạn đầu của sự phát triển này, những yếu tố cơ bản cho sự phát triển là thể chế, kết cấu hạ tầng, ổn định kinh tế vĩ mô, giáo dục phổ thông và dịch vụ y tế thiết yếu.
Biểu đồ dưới đây minh họa thứ hạng về năng lực cạnh tranh của Việt Nam các năm 2007 – 2008; 2008 – 2009 và 2009 – 2010 trong Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu của WEF. Theo đó, chỉ số năng lực cạnh tranh của các nền kinh tế được xếp hạng căn cứ vào 12 tiêu chí cụ thể cấu thành trong ba nhóm chỉ số phụ của năng lực cạnh tranh gồm (1) nhóm các yếu tố cơ bản với 4 tiêu chí; (2) nhóm các yếu tố nâng cao hiệu quả gồm 6 tiêu chí; (3) nhóm các yếu tố phản ánh trình độ phát triển và sự sáng tạo của nền kinh tế gồm 2 yếu tố (1). Các yếu tố cụ thể được cho điểm theo thang điểm từ 1 đến 7, trong đó số điểm càng cao càng phản ánh năng lực cạnh tranh của nền kinh tế gắn với thứ hạng bên trên của nền kinh tế.
Xếp hạng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam 2007 – 2009
Nguồn: Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu 2008 – 2010
Biểu đồ cho thấy, Việt Nam bị tụt hạng về năng lực cạnh tranh trong 3 năm qua. Cụ thể, thứ hạng chung của Việt Nam giảm từ 68/131 nền kinh tế được xếp hạng (năm 2007 – 2008), xuống thứ 70/134 (năm 2008 – 2009) và tiếp tục giảm mạnh xuống thứ 75/133 (năm 2009 -2010). Xét trong 3 nhóm chỉ số phụ, thứ hạng của Việt Nam được cải thiện đáng kể ở nhóm chỉ số phụ thứ 3 (trình độ phát triển và sự sáng tạo của nền kinh tế) với thứ bậc các năm
2007 – 2009 lần lượt là 76, 71 và 55; nhóm chỉ số phụ thứ hai cũng được cải thiện: năm 2009 xếp thứ 61 tăng 12 bậc so với thứ hạng 73 của năm 2008 trong khi nhóm chỉ số phụ thứ nhất gồm các yếu tố cơ bản cho phát triển có sự tụt hạng mạnh, từ vị trí thứ 77/131 (năm 2007), giảm xuống còn 79/134 (năm 2008) và 92/133 nền kinh tế (năm 2009).
Những hạn chế và bất cập trong thể chế kinh doanh của Việt Nam thời gian qua có thể bắt nguồn từ những nguyên nhân chính sau đây: Thứ nhất, do chúng ta chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường (KTTT) từ điều kiện sản xuất hàng hóa nhỏ còn khá phổ biến, trình độ phát triển của nền kinh tế thấp; kết cấu hạ tầng của nền kinh tế còn yếu kém. Thứ hai, do hệ quả của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp làm hạn chế nhận thức và tư duy phát triển KTTT ở nước ta. Thứ ba, do năng lực hạn chế của nguồn nhân lực với những thiếu hụt về tri thức và thực tiễn phát triển kinh doanh trong cơ chế KTTT. Thứ tư, do chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới năm 2008 – 2009.
3 – Một số giải pháp hoàn thiện thể chế kinh doanh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
Một là, cần đổi mới nhận thức và tư duy về hoàn thiện thể chế kinh doanh của Việt Nam trong một thế giới toàn cầu hóa mà mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng tăng lên. Từ thực tiễn về xử lý và khắc phục cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới các năm 2008 – 2009 cho thấy, các nền kinh tế không thể tự giải quyết được những vấn đề riêng của mình nếu không có những nỗ lực quốc tế, toàn cầu. Nền KTTT Việt Nam và nền KTTT thế giới có thể khác nhau về trình độ phát triển, đặc thù, nhu cầu phát triển xã hội, môi trường, an ninh quốc phòng…, nhưng sự vận động và phát triển kinh tế nói chung phải tuân thủ các nguyên tắc của quy luật KTTT, hoạt động sản xuất kinh doanh và các hành vi kinh tế phải được chi phối bởi cơ chế thị trường. Môi trường kinh doanh phải là môi trường cho KTTT vận động và phát triển. Nếu không nâng tầm tư duy và nhận thức đầy đủ về nền KTTT mở cửa hội nhập, chúng ta không thể hình thành được những thể chế kinh doanh đầy đủ và đồng bộ, phù hợp và hiệu quả.
Để đổi mới tư duy và nhận thức đòi hỏi phải xây dựng cơ sở lý luận, xác định quan điểm định hướng phát triển thể hiện trong các nghị quyết của Đảng và Nhà nước. Từ đó giáo dục, đào tạo cho cán bộ, đảng viên về nhận thức mới, đối tượng chủ yếu là cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp và cán bộ nghiên cứu chính sách để đưa những tư duy mới làm cơ sở soạn thảo luật pháp và thể chế. Cuối cùng cần giáo dục, truyền đạt rộng rãi cho nhân dân, tạo sự đồng thuận và nghiêm chỉnh thực thi của xã hội về thể chế mới.
Hai là, hoàn thiện hệ thống pháp lý, nâng cao hiệu lực thực thi và hiệu quả tác động của hệ thống này tới môi trường kinh doanh theo hướng tự do hóa và tạo thuận lợi hơn nữa cho phát triển kinh doanh. Điều này bao gồm:
- Điều chỉnh, hoàn thiện các luật lệ đã ban hành nhằm làm cho các yếu tố sản xuất được thực thi và quản lý theo cơ chế thị trường, phù hợp luật lệ quốc tế, các cam kết đã ký để phát triển nền KTTT Việt Nam, khắc phục các yếu tố phi thị trường cản trở việc thực thi luật pháp trong thực tế.
- Luật pháp là yếu tố quan trọng nhưng chưa đủ cho một thể chế mang tính khả thi. Vì thế phải có văn bản hướng dẫn (nghị định, thông tư). Xây dựng cơ chế cụ thể thực thi luật pháp và thể chế trong thực tế cuộc sống bao gồm nhiều hoạt động như phổ biến, truyền đạt các nội dung và quy tắc của thể chế trong xã hội, triển khai sự vận động của luật lệ, thể chế trong hoạt động kinh tế; tổ chức theo dõi, giám sát việc thực thi thể chế trong thực tiễn; tổ chức hỗ trợ tư pháp cho người dân, cho doanh nghiệp tổ chức xử lý các vi phạm và tranh chấp trong thực tế.
- Hiệu lực của luật pháp và thể chế không thể chỉ dựa trên sự tôn trọng và tuân thủ của doanh nghiệp và người dân mà còn dựa vào sự theo dõi, giám sát bởi một bộ máy tổ chức chuyên môn, có chức năng, nhiệm vụ rõ ràng.
Ba là, hoàn thiện thể chế cho việc phát triển đầy đủ và đồng bộ hệ thống thị trường. Hệ thống thị trường hình thành trên cơ sở tạo lập các thị trường bộ phận như thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường bất động sản, thị trường tài chính tiền tệ, thị trường lao động, thị trường khoa học – công nghệ,… Trong đó các thị trường phức tạp có tính cao cấp như thị trường bất động sản, tài chính – tiền tệ, lao động và khoa học – công nghệ không thể tự phát hình thành mà phải được thể chế hóa đầy đủ mới có thể phát triển. Đặc biệt, các thị trường chức năng là những yếu tố mang tính chuyên môn, chuyên nghiệp cao. Việc hoàn thiện thể chế các yếu tố phải giao cho các cơ quan chuyên môn, quản lý chuyên ngành nhưng phải tập hợp được ý kiến chuyên gia trong và ngoài nước. Ngay từ đầu phải coi trọng cả hai khâu: xây dựng và thực thi thể chế, tránh tình trạng văn bản được đánh giá tốt nhưng thực thi lại khó khăn, phức tạp…
Bốn là, cải cách thủ tục hành chính. Để tạo lập được môi trường hành chính tốt thì thể chế hành chính phải có những điều khoản đòi hỏi các cơ quan và chức vụ hành chính phải chịu trách nhiệm cuối cùng về các sai phạm hành chính trong phạm vi quyền quản lý của mình. Thủ tục hành chính là bộ phận cụ thể nhưng hết sức quan trọng của luật pháp và thể chế hành chính. Do đó thủ tục hành chính cũng phải được thể chế hóa và đòi hỏi thực thi nghiêm minh. Và, thể chế hành chính chỉ thành công khi có đội ngũ cán bộ hành chính được đào tạo cơ bản đồng thời trang bị kiến thức cụ thể cho từng chức vụ hành chính. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có năng lực chuyên môn, tác phong chuyên nghiệp, có đạo đức nghề nghiệp và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân là cốt lõi để thực hiện cải cách thủ tục hành chính thành công.
Năm là, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội. Nâng cấp kết cấu hạ tầng là nhiệm vụ cấp bách. Trong nhiệm vụ này thường xuyên có mâu thuẫn giữa nguồn lực và nhu cầu nên đòi hỏi phải tính toán kỹ trên cơ sở quy hoạch đúng đắn, tập trung đầu tư công trình trọng điểm, chiến lược trong khai thông vận chuyển, thông tin và truyền thông, cũng như cung cấp năng lượng. Việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng xã hội phải theo hướng xã hội hóa sâu rộng nhằm thu hút các nguồn ngoại lực cho lĩnh vực trọng yếu này.
Sáu là, nỗ lực phát triển nguồn nhân lực, bởi suy cho cùng thì con người chính là cốt lõi của thể chế, con người xây dựng khung khổ pháp lý điều chỉnh hành vi và các mối quan hệ, tổ chức bộ máy thực thi pháp luật, quản lý và vận hành hệ thống kinh doanh… Vì vậy, nỗ lực phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trên các phương diện tư duy và nhận thức, kỹ năng và phong cách, chất lượng và hiệu quả, chuyên nghiệp và nhân văn chính là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành công cho hoàn thiện thể chế kinh doanh, phát triển KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập của Việt Nam./.
_______________________________________________
(1) Nhóm chỉ số phụ thứ nhất gồm 4 tiêu chí: thể chế, kết cấu hạ tầng, ổn định kinh tế vĩ mô, y tế và giáo dục phổ thông; nhóm chỉ số phụ thứ 2 gồm 6 tiêu chí: giáo dục và đào tạo bậc cao, hiệu quả thị trường hàng hóa, hiệu quả thị trường lao động, trình độ của thị trường tài chính, sẵn sàng công nghệ và quy mô thị trường; nhóm chỉ số phụ thứ ba gồm 2 tiêu chí: trình độ của doanh nghiệp và sự sáng tạo của nền kinh tế
SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN ĐIỆN TỬ SỐ 14 (206) NĂM 2010 - TS. NGUYỄN THỊ NHIỄU – Bộ Công thương