Mục lục bài viết
1.Nơi cư trú
Sự cần thiết của việc xác định nơi cư trú. Hộ tịch giúp phân biệt một cá nhân với một cá nhân khác. Nhưng để xác lập và thực hiện các giao dịch với người khác, cá nhân phải ở trong tình trạng có thể được liên lạc. Cá nhân không liên lạc được không thể được coi là chủ thể hiện thực của quyền và nghĩa vụ pháp lý: người ta sẽ không biết làm thế nào gọi người đó đến để tiếp nhận việc thực hiện một nghĩa vụ hoặc để đáp ứng quyền yêu cầu của một người khác. Trong quan niệm truyền thống, đời sống pháp lý của cá nhân nhất thiết phải gắn với một nơi chốn nào đó. Luật gọi nơi chốn đó là nơi cư trú. Chế định nơi cư trú là biện pháp định vị cá nhân trong không gian, về phương diện pháp lý. Nơi cư trú phải là một điểm cố định trên lãnh thổ chứ không thể là một điểm di động. Điều đó cũng có nghĩa rằng mỗi người chỉ có một nơi cư trú: một người có nơi cư trú tại nhiều hơn một điểm cố định coi như luôn di động giữa các điểm cố định đó. Ta lần lượt nghiên cứu chức năng của nơi cư trú và cách xác định nơi cư trú.
2. Chức năng của nơi cư trú
Ðịa chỉ liên lạc của cá nhân và nơi lưu trữ các dữ kiện cơ bản về hộ tịch. Nơi cư trú theo nghĩa pháp lý không nhất thiết là nơi cư trú theo nghĩa vật chất. Con người có thể liên tục thay đổi nơi cư trú vật chất mà vẫn giữ cố định nơi cư trú pháp lý của mình. Về phương diện công pháp, nơi cư trú giữ vai trò địa chỉ liên lạc giữa cá nhân với Nhà nước, cụ thể hơn, với các cơ quan Nhà nước: nhà chức trách thuế vụ gửi giấy báo thuế đến nơi cư trú của người chịu thuế; hội đồng bầu cử gửi thẻ cử tri đến nơi cư trú của cử tri; hội đồng nghĩa vụ quân sự gửi giấy triệu tập để khám sức khoẻ và lệnh gọi nhập ngũ đến nơi cư trú của người phải thi hành nghĩa vụ quân sự;... Ở góc độ tư pháp, chức năng của nơi cư trú khá đa dạng: - Thông thường, nơi cư trú đầu tiên của cá nhân, sau khi ra đời, cũng là nơi đăng ký khai sinh của cá nhân. Nơi đăng ký kết hôn là nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ; nới đăng ký khai tử là nơi cư trú cuối cùng của người chết; nơi cư trú của người xin thay đổi, cải chính hộ tịch là nơi đăng ký việc thay đổi, cải chính hộ tịch;... Một cách tổng quát, nơi cư trú của cá nhân là nơi mà người ta có thể thu thập các thông tin về hộ tịch của cá nhân. - Trong trường hợp một nghĩa vụ tài sản có tính chất động sản được xác lập và các bên không có thoả thuận về nơi thực hiện nghĩa vụ, thì nơi này là nơi cư trú của người có quyền yêu cầu (BLDS Ðiều 284 khoản 2). - Trong các tranh chấp dân sự, Toà án có thẩm quyền giải quyết là Toà án nơi cư trú của bị đơn, trừ trường hợp việc tranh chấp có liên quan đến bất động sản hoặc các bên tranh chấp có thoả thuận yêu cầu Toà án nơi cư trú của nguyên đơn giải quyết ( Bộ luật tố tụng dân sự 2004 Điều 35 khoản 1).
3. Xác định nơi cư trú dựa vào quan hệ quản lý hành chính về trật tự xã hội
Theo BLDS Ðiều 52 khoản 1, nơi cư trú của một cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống. Điều 12 Luật cư trú cho rằng “Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú. Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật.Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú. Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm trú. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của công dân theo quy định trên thì nơi cư trú của công dân là nơi người đó đang sinh sống.” Quy tắc này có lẽ được áp dụng chủ yếu đối với người có đầy đủ năng lực hành vi hoặc từ đủ mười lăm tuổi trở lên và được phép có nơi cư trú riêng trong những trường hợp dự liệu tại các Ðiều 53 khoản 2 và 54 khoản 2 BLDS: người chưa thành niên dưới 15 tuổi có thể cư trú ở một nơi khác với nơi cư trú của cha, mẹ hoặc người giám hộ, nhưng luôn có nơi cư trú (theo luật) trùng với nơi cư trú của những người sau này.
4. Xác định nơi cư trú dựa vào quan hệ gia đình
Nơi cư trú của người chưa thành niên. Theo BLDS Ðiều 53 khoản 1, nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha, mẹ; nếu cha, mẹ có nơi cư trú khác nhau, thì nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha hoặc mẹ mà người chưa thành niên thường xuyên chung sống. Trong trường hợp người chưa thành niên không có cha và mẹ, thì nơi cư trú của người này được xác định dựa theo các quy định về nơi cư trú của người được giám hộ. Nếu không có người giám hộ, thì hẳn phải xác định nơi cư trú của người chưa thành niên theo luật chung, nghĩa là dựa vào quan hệ quản lý hành chính về trật tự xã hội, đã được phân tích ở trên. Người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi trở lên có thể có nơi cư trú khác với nơi cư trú của cha, mẹ, nếu được cha, mẹ đồng ý hoặc pháp luật có quy định (Ðiều 53 khoản 2). Nơi cư trú khác của người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi trở lên sẽ được xác định theo luật chung, dựa vào quan hệ quản lý hành chính về trật tự xã hội.
Nơi cư trú của người được giám hộ. Theo BLDS Ðiều 54 khoản 1, nơi cư trú của người được giám hộ là nơi cư trú của người giám hộ. Và cũng như người chưa thành niên có cha hoặc mẹ, người được giám hộ từ đủ 15 tuổi trở lên có thể có nơi cư trú riêng so với người giám hộ, nếu được người sau này đồng ý hoặc pháp luật có quy định (Ðiều 50 khoản 2). Dù luật không nói rõ, người được giám hộ đủ 15 tuổi ở đây phải là người chưa thành niên: người thành niên được giám hộ là người mất năng lực hành vi và do đó, không có năng lực bày tỏ ý chí một cách hữu hiệu.
Nơi cư trú của vợ, chồng. Vợ, chồng có thể có nơi cư trú khác nhau, nếu có thoả thuận (BLDS Ðiều 55 đoạn 2). Ðiều đó có nghĩa rằng nếu không có thoả thuận, thì vợ, chồng coi như có cùng nơi cư trú. Ðiều 55 đoạn 1 nói rằng nơi cư trú của vợ, chồng là nơi vợ, chồng thường xuyên chung sống. Tổng hợp các quy tắc vừa nêu, ta có thêm một quy tắc nữa: nếu vợ, chồng không có nơi sống chung mà cũng không có sự thoả thuận rành mạch về việc sống riêng, thì giữa hai người coi như có sự thoả thuận mặc nhiên về việc xác lập nơi cư trú riêng và nơi cư trú của mỗi người trong trường hợp này cũng được xác định theo Ðiều 52 BLDS. Quy tắc sau cùng này cần thiết trong trường hợp vợ và chồng sống trong tình trạng ly thân thực tế mà không cắt đứt quan hệ hôn nhân.
5. Xác định nơi cư trú dựa vào các quan hệ nghề nghiệp
Nơi cư trú của quân nhân, công nhân, viên chức quốc phòng. Ở góc độ nơi cư trú có hai loại quân nhân - quân nhân đang làm nghĩa vụ quân sự và sĩ quan quân đội, quân nhân chuyên nghiệp. Luật quy định rằng quân nhân đang làm nghĩa vụ quân sự có nơi cư trú tại nơi đóng quân (BLDS Ðiều 56 khoản 1); còn nơi cư trú của sĩ quan quân đội, quân nhân chuyên nghiệp là nơi người này thường xuyên sinh sống (Ðiều 56 khoản 2); chỉ khi nào không thể xác định nơi cư trú theo cách đó, thì sĩ quan quân đội, quân nhân chuyên nghiệp mới được coi là có nơi cư trú tại nơi đóng quân (cùng điều luật). Nơi cư trú của công nhân, viên chức quốc phòng được xác định tương tự như đối với quân nhân chuyên nghiệp (cùng điều luật).
Nơi cư trú của người làm nghề lưu động. Những người làm nghề lưu động, theo định nghĩa của luật, là những người hoạt động nghề nghiệp trên tàu, thuyền hoặc phương tiện hành nghề lưu động khác (xe vận tải đường dài, chẳng hạn). Nơi cư trú của những người này được xác định là nơi nơi thường xuyên sinh sống (Ðiều 57). Nếu không xác định được nơi cư trú theo cách đó, thì những người này coi như có nơi cư trú tại nơi đăng ký tàu, thuyền, phương tiện mà trên đó người này hành nghề lưu động (cùng điều luật).
Nơi cư trú của công dân là gì?