Mục lục bài viết
1. Một số thông tin về thẻ ngân hàng
Thẻ ngân hàng, thường được gọi là "thẻ," là một phương tiện thanh toán được tổ chức phát hành để thực hiện các giao dịch theo các điều kiện và điều khoản được các bên thoả thuận. Các tổ chức phát hành thẻ bao gồm ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và một số công ty tài chính. Thẻ ngân hàng chủ yếu được sử dụng để thực hiện dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, cùng với các phương tiện thanh toán khác như tiền mặt, séc, lệnh chi (ủy nhiệm chi), và ủy nhiệm thu. Với những ưu điểm như gọn nhẹ, an toàn, và thuận lợi, thẻ ngân hàng đang trở nên phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới và đặc biệt là tại Việt Nam.
Thẻ ngân hàng có thể được phân loại theo một số tiêu chí khác nhau. Đầu tiên, theo phạm vi lãnh thổ sử dụng, chúng ta có thẻ nội địa và thẻ quốc tế. Phân loại này dựa trên khả năng sử dụng thẻ của chủ thẻ trong nước hoặc cả nước ngoài, trong khi tính năng của thẻ có thể là ghi nợ, tín dụng, hoặc trả trước.
Thẻ nội địa được thiết kế để rút tiền mặt hoặc thanh toán trong nước, giúp chủ thẻ sử dụng các dịch vụ ngân hàng và thanh toán hàng hóa, dịch vụ nhanh chóng và thuận tiện. Thẻ quốc tế, trong khi cũng có khả năng rút tiền và thanh toán trong nước, nhưng nổi bật hơn khi chủ thẻ cần sử dụng thẻ ở cả nước ngoài. Các thương hiệu thẻ quốc tế như Visa, MasterCard, JCB, American Express, UP thường được ngân hàng tại Việt Nam phát hành, là sự lựa chọn phổ biến cho những chuyến công tác, du lịch, hoặc mua sắm quốc tế.
Một phát triển đáng chú ý là thông qua kết nối của tổ chức chuyển mạch thẻ trong nước, như Banknetvn, với các tổ chức tương tự ở nước ngoài, thẻ nội địa của một số ngân hàng ở Việt Nam có thể sử dụng tại ATM và các điểm chấp nhận thẻ ở một số quốc gia khác. Điều này phản ánh sự tiến bộ trong công nghệ và mối quan hệ hợp tác giữa hệ thống thanh toán thẻ của Việt Nam và thế giới, giúp nâng cao chất lượng dịch vụ thẻ cho chủ thẻ Việt Nam.
Một cách phân loại khác là dựa trên nguồn tài chính đảm bảo cho việc sử dụng thẻ, bao gồm thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, và thẻ trả trước.
Thẻ ghi nợ cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch trong phạm vi số tiền có sẵn trên tài khoản thanh toán của họ. Ban đầu, loại thẻ này được biết đến với tính năng rút tiền mặt từ máy ATM, nhưng ngày nay đã phát triển với nhiều tính năng khác như kiểm tra số dư và chuyển khoản. Chủ thẻ có quyền hoàn toàn chủ động chi tiêu, nhưng cũng cần quản lý số dư để đảm bảo các giao dịch được thực hiện mà không gây trục trặc.
Thẻ tín dụng cung cấp một hạn mức tín dụng cho chủ thẻ, cho phép họ chi tiêu trong phạm vi hạn mức đó. Thường được cấp dựa trên uy tín tín dụng và thu nhập hàng tháng, thẻ tín dụng hỗ trợ thanh toán hàng hóa và dịch vụ nhanh chóng, với khả năng trả tiền sau khi đã sử dụng.
Cuối cùng, thẻ trả trước yêu cầu chủ thẻ nạp tiền vào thẻ trước khi sử dụng. Có thể phân thành thẻ trả trước định danh và thẻ trả trước vô danh, với sự khác biệt chủ yếu ở việc thẻ trả trước vô danh không thể nạp thêm tiền sau lần đầu, và giới hạn số dư không vượt quá một mức nhất định.
Các loại thẻ trả trước thường được sử dụng cho việc thanh toán xăng, dầu, giải trí, giao thông - vận tải và mua sắm trực tuyến.
2. Xuất cảnh mang theo thẻ ngân hàng có phải khai báo Hải quan hay không?
Tại mục 3 Điều 2 của Thông tư 15/2011/TT-NHNN, quy định việc mang theo thẻ ngân hàng và sổ tiết kiệm khi xuất nhập cảnh thông qua cửa khẩu quốc tế của Việt Nam như sau:
- Khi cá nhân xuất nhập cảnh qua cửa khẩu quốc tế của Việt Nam, phải sử dụng hộ chiếu và mang theo ngoại tệ tiền mặt, đồng Việt Nam tiền mặt dưới mức quy định. Số tiền này cần được khai báo tại Hải quan cửa khẩu, với ngưỡng:
+ 5.000 USD (Năm nghìn Đôla Mỹ) hoặc các loại ngoại tệ khác có giá trị tương đương;
+ 15.000.000 VNĐ (Mười lăm triệu đồng Việt Nam).
- Trong trường hợp cá nhân nhập cảnh mang theo ngoại tệ tiền mặt bằng hoặc thấp hơn 5.000 USD (hoặc tương đương), và có ý định gửi số ngoại tệ này vào tài khoản thanh toán bằng ngoại tệ tại tổ chức tín dụng được phép, cũng phải thực hiện khai báo tại Hải quan cửa khẩu. Tờ khai nhập cảnh - xuất cảnh với xác nhận của Hải quan cửa khẩu về số ngoại tệ mang vào sẽ là cơ sở để tổ chức tín dụng được phép thực hiện gửi ngoại tệ tiền mặt vào tài khoản thanh toán.
- Mức ngoại tệ tiền mặt và đồng Việt Nam tiền mặt được quy định tại Khoản 1 của Điều này không áp dụng đối với những cá nhân mang theo các phương tiện thanh toán, giấy tờ có giá bằng ngoại tệ hoặc đồng Việt Nam, như séc du lịch, thẻ ngân hàng, sổ tiết kiệm, chứng khoán và giấy tờ có giá khác.
Do đó, cá nhân mang theo thẻ ngân hàng và sổ tiết kiệm khi xuất nhập cảnh qua cửa khẩu quốc tế của Việt Nam không cần phải thực hiện khai báo tại Hải quan cửa khẩu. Tương tự, việc khai báo cũng không áp dụng đối với séc du lịch, chứng khoán và các loại giấy tờ có giá khác.
3. Những giấy tờ xuất trình cho Hải quan cửa khẩu
Tại Điều 3 của Thông tư 15/2011/TT-NHNN, quy định về giấy tờ xuất trình cho Hải quan cửa khẩu khi cá nhân xuất cảnh mang theo ngoại tệ tiền mặt và đồng Việt Nam tiền mặt được mô tả như sau:
- Cá nhân xuất cảnh mang theo ngoại tệ tiền mặt và đồng Việt Nam tiền mặt vượt mức quy định tại Khoản 1 Điều 2 của Thông tư hoặc vượt số đã khai báo Hải quan cửa khẩu khi nhập cảnh lần gần nhất, phải xuất trình cho Hải quan cửa khẩu một trong hai loại giấy tờ sau đây:
+ Giấy xác nhận (gọi là Giấy xác nhận) về việc mang ngoại tệ tiền mặt và đồng Việt Nam tiền mặt ra nước ngoài, do tổ chức tín dụng được phép cấp, tuân thủ quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối; hoặc
+ Văn bản chấp thuận từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho cá nhân mang ngoại tệ tiền mặt và đồng Việt Nam tiền mặt ra nước ngoài.
- Trong trường hợp cá nhân xuất cảnh mang theo ngoại tệ tiền mặt và đồng Việt Nam tiền mặt vượt mức quy định tại Khoản 1 Điều 2, nhưng không vượt quá số lượng đã khai báo khi nhập cảnh lần gần nhất, cá nhân này phải xuất trình Tờ khai nhập cảnh - xuất cảnh có xác nhận của Hải quan cửa khẩu về số ngoại tệ tiền mặt và đồng Việt Nam tiền mặt đã mang vào, không cần Giấy xác nhận từ tổ chức tín dụng được phép.
Tờ khai nhập cảnh - xuất cảnh có xác nhận của Hải quan cửa khẩu về số ngoại tệ tiền mặt và đồng Việt Nam tiền mặt đã mang vào khi nhập cảnh lần gần nhất chỉ có hiệu lực cho cá nhân xuất cảnh mang theo ngoại tệ tiền mặt và đồng Việt Nam tiền mặt ra nước ngoài trong thời hạn 12 tháng tính từ ngày ghi trên Tờ khai nhập cảnh - xuất cảnh. Do đó, giấy tờ xuất trình cho Hải quan cửa khẩu trong trường hợp cá nhân vượt mức bao gồm một trong hai loại giấy tờ nêu trên, tùy thuộc vào tình huống cụ thể của việc xuất cảnh.
4. Quy định về gửi ngoại tệ tiền mặt vào tài khoản thanh toán bằng ngoại tệ của cá nhân mở tại tổ chức tín dụng
Tại Điều 4 của Thông tư 15/2011/TT-NHNN, quy định về việc cá nhân nhập cảnh mang theo ngoại tệ tiền mặt và có nhu cầu gửi số ngoại tệ này vào tài khoản thanh toán bằng ngoại tệ tại tổ chức tín dụng được phép như sau:
- Cá nhân, khi có nhu cầu gửi số ngoại tệ tiền mặt mang theo vào tài khoản thanh toán bằng ngoại tệ tại tổ chức tín dụng được phép, cần xuất trình Tờ khai nhập cảnh - xuất cảnh có xác nhận của Hải quan cửa khẩu về số ngoại tệ tiền mặt mang vào.
- Trong quá trình thực hiện giao dịch cho khách hàng, tổ chức tín dụng được phép đóng dấu xác nhận số ngoại tệ đã nộp vào tài khoản thanh toán bằng ngoại tệ trên bản chính của Tờ khai nhập cảnh - xuất cảnh. Đồng thời, tổ chức tín dụng lưu giữ 01 bản sao của Tờ khai nhập cảnh này.
- Tờ khai nhập cảnh - xuất cảnh có xác nhận của Hải quan cửa khẩu chỉ có giá trị cho cá nhân gửi ngoại tệ tiền mặt vào tài khoản thanh toán bằng ngoại tệ trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày ghi trên Tờ khai nhập cảnh - xuất cảnh.
Bài viết liên quan: Mang vàng nhập cảnh vào Việt Nam có cần khai báo hải quan?
Luật Minh Khuê xin tiếp nhận yêu cầu tư vấn của quý khách hàng thông qua số hotline: 1900.6162 hoặc email: lienhe@luatminhkhue.vn. Xin trân trọng cảm ơn!