1. Đình công là gì?

Dưới góc độ pháp lí, đình công là một quyền của người lao động (NLĐ) được pháp luật thừa nhận (theo Điều 8 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá của Liên Hợp quốc). Quyền đình công được hiểu là quyền ngừng việc tạm thời của những NLĐ nhằm buộc người sử dụng lao động hoặc các chủ thể khác phải thoả mãn những yêu sách về quyền và lợi ích và được NLĐ tự nguyện tiến hành trong khuôn khổ pháp luật. Vì là một loại quyền của NLĐ nên đình công phải được thực hiện thông qua hành vi ngừng việc của chính những NLĐ nhằm hướng tới những lợi ích nghề nghiệp và xuất phát từ quan hệ lao động. Những NSDLĐ, những cá nhân không có việc làm, thành viên của các tổ chức chính trị, xã hội không được quyền đình công. Tuy nhiên, cách hiểu khái niệm NLĐ hiện nay cũng rất khác nhau dẫn đề việc xác định đối tượng có quyền đình công ở các quốc gia cũng rất khác nhau.

Theo quan điểm lập pháp của VIệt Nam, khái niệm về đình công được hiểu là: sự ngừng việc tạm thời, tự nguyên và có tổ chức của người lao động nhằm đạt được yêu cầu trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động và do tổ chức đại diện người lao động có quyền thương lượng tập thể là một bên tranh chấp lao động tập thể tổ chức và lãnh đạo. (Điều 198 Bộ luật Lao động năm 2019)

2. Các dấu hiệu cơ bản của đình công bao gồm những gì?

Thứ nhất, đình công là sự phản ứng của những NLĐ thông qua hành vi ngừng việc hoàn toàn (ngừng việc triệt để).

Thứ hai, đình công là hiện tượng phản ứng có tính tập thể được tiến hành bởi những NLĐ.

Thứ ba, đình công được thực hiện một cách có tổ chức.

Thứ tư, mục đích của đình công là nhằm đạt những yêu sách gắn vớu lợi ích tập thể của người lao động.

3. Để đình công là hợp pháp cần thực hiện theo trình tự, thủ tục nào?

3.1. Đối tượng được phép đình công theo quy định của pháp luật.

Không phải trong mọi trường hợp NLĐ đều được phép thực hiện quyền đình công mà chỉ được thực hiện khi thuộc vào một trong những trường hợp của Điều 199 BLLĐ 2019.

"Điều 199. Trường hợp người lao động có quyền đình công

Tổ chức đại diện người lao động là bên tranh chấp lao động tập thể về lợi ích có quyền tiến hành thủ tục quy định tại các điều 200, 201 và 202 của Bộ luật này để đình công trong trường hợp sau đây:

1. Hòa giải không thành hoặc hết thời hạn hòa giải quy định tại khoản 2 Điều 188 của Bộ luật này mà hòa giải viên lao động không tiến hành hòa giải;

2. Ban trọng tài lao động không được thành lập hoặc thành lập nhưng không ra quyết định giải quyết tranh chấp hoặc người sử dụng lao động là bên tranh chấp không thực hiện quyết định giải quyết tranh chấp của Ban trọng tài lao động."

Có thể thấy, đối với những trường hợp khi việc đình công xảy ra sẽ gây ảnh hưởng lớn đến lợi ích cộng đồng, của Nhà nước thì NLĐ còn bị hạn chế quyền này qua quy định nơi sử dụng lao động không được đình công nếu việc đình công có thể đe doạ đến quốc phòng, an ninh, trật tự công cộng, súc khoẻ của con người.

3.2. Thời điểm được phép đình công theo quy định của pháp luật

Khi xảy ra tranh chấp lao động tập thể về lợi ích, để giải quyết tranh chấp thì trước hết NSDLĐ và tập thể NLĐ phải tự dàn xếp, thương lượng, thoả thuận với nhau về yêu cầu của tập thể NLĐ. Trường hợp hai bên không tự thương lượng được với nhau, khi đó cần đến sự can thiệp của bên thứ ba là hoà giải viên lao động hoặc hội đồng trọng tài lao động. Việc hoà giải của hào giải viên lao động hoặc hội đồng trọng tài lao đọng phải được tiến hành theo thủ tục luật định. Khi hết thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu giải quyết mà ban trọng tài lao động không được thành lập hoặc hết thời hạn 30 ngày kể từ ngày được thành lập mà ban tọng tài không ra quyết định giải quyết tranh chấp hoặc người sử dụng lao động là bên tranh chấp không thực hiện quyết định giải quyết tranh chấp của ban trọng tài lao động thì tổ chức đại diện người lao động là bên tranh chấp có quyền tiến hành đình công theo trình tự, thủ tục luật định.

Như vậy, pháp luật quy định việc đình công chỉ được phép tiến hành đối với các tranh chấp lao động tập thể về lợi ích và sau thời hạn nhất định. Pháp luật đã quy định khoảng thời gian hợp lí để các bên có thể giải quyết tranh chấp lao động bằng phương pháp hoà giải nhằm hạn chế tối đa việc đình công gây ảnh hưởng đến quyền lợi của tập thể NLĐ và NSDLĐ.

Trong trường hợp giải quyết tranh chấp bằng con đường hoà giải, nếu hoà giải không thành hoặc hết thời hạn hoà giải mà hoà giải viên lao động không tiến hành hoà giải thì khi đó, NLĐ được tiến hành đình công - vũ khí cuối cùng của NLĐ.

3.3. Chủ thể có quyền lãnh đạo đình công

Theo quy định của BLLĐ năm 2019, chủ thể có quyền tổ chức và lãnh đạo đình công là tổ chức đại diện người lao đọng tại cơ sở là tổ chức được thành lập trên cơ sở tự nguyện của NLĐ tại một đơn vị sử dụng lao động nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đánh của NLĐ trong quan hệ lao động thông qua thương lượng tập thể hoặc các hình thức khác theo quy định của pháp luật về lao động. Tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở bao gồm công đoàn cơ sở và tổ chức của NLĐ tại doanh nghiệp.

3.4. Thủ tục chuẩn bị và tiến hành đình công theo quy định của pháp luật

Bước 1: Chuẩn bị đình công

Thủ tục chuẩn bị đình công lần lượt là lấy ý kiến về đình công; ra quyết định đình công và thông báo đình công được quy định tại điều 201 và 202 BLLĐ 2019.

"Điều 201. Lấy ý kiến về đình công

1. Trước khi tiến hành đình công, tổ chức đại diện người lao động có quyền tổ chức và lãnh đạo đình công quy định tại Điều 198 của Bộ luật này có trách nhiệm lấy ý kiến của toàn thể người lao động hoặc thành viên ban lãnh đạo của các tổ chức đại diện người lao động tham gia thương lượng.

2. Nội dung lấy ý kiến bao gồm:

a) Đồng ý hay không đồng ý đình công;

b) Phương án của tổ chức đại diện người lao động về nội dung quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều 202 của Bộ luật này.

3. Việc lấy ý kiến được thực hiện trực tiếp bằng hình thức lấy phiếu hoặc chữ ký hoặc hình thức khác.

4. Thời gian, địa điểm và cách thức tiến hành lấy ý kiến về đình công do tổ chức đại diện người lao động quyết định và phải thông báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 01 ngày. Việc lấy ý kiến không được làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh bình thường của người sử dụng lao động. Người sử dụng lao động không được gây khó khăn, cản trở hoặc can thiệp vào quá trình tổ chức đại diện người lao động tiến hành lấy ý kiến về đình công."

"Điều 202. Quyết định đình công và thông báo thời điểm bắt đầu đình công

1. Khi có trên 50% số người được lấy ý kiến đồng ý với nội dung lấy ý kiến đình công theo quy định tại khoản 2 Điều 201 của Bộ luật này thì tổ chức đại diện người lao động ra quyết định đình công bằng văn bản.

2. Quyết định đình công phải có các nội dung sau đây:

a) Kết quả lấy ý kiến đình công;

b) Thời điểm bắt đầu đình công, địa điểm đình công;

c) Phạm vi tiến hành đình công;

d) Yêu cầu của người lao động;

đ) Họ tên, địa chỉ liên hệ của người đại diện cho tổ chức đại diện người lao động tổ chức và lãnh đạo đình công.

3. Ít nhất là 05 ngày làm việc trước ngày bắt đầu đình công, tổ chức đại diện người lao động tổ chức và lãnh đạo đình công phải gửi văn bản về việc quyết định đình công cho người sử dụng lao động, Ủy ban nhân dân cấp huyện và cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

4. Đến thời điểm bắt đầu đình công, nếu người sử dụng lao động vẫn không chấp nhận giải quyết yêu cầu của người lao động thì tổ chức đại diện người lao động tổ chức và lãnh đạo đình công."

Bước 2: Tiến hành đình công

Đến thời điểm bắt đầu đình công, nếu NSDLĐ vẫn không chấp nhận giải quyết yêu cầu của tập thể lao động thì tổ chức đại diện NLĐ tổ chức và lãnh đạo đình công, Trong qua trình đình công, các bên sẽ không được phép thực hiện một số hành vi nhất định tại Điều 208 BLLĐ 2019

"Điều 208. Các hành vi bị nghiêm cấm trước, trong và sau khi đình công

1. Cản trở việc thực hiện quyền đình công hoặc kích động, lôi kéo, ép buộc người lao động đình công; cản trở người lao động không tham gia đình công đi làm việc.

2. Dùng bạo lực; hủy hoại máy, thiết bị, tài sản của người sử dụng lao động.

3. Xâm phạm trật tự, an toàn công cộng.

4. Chấm dứt hợp đồng lao động hoặc xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động, người lãnh đạo đình công hoặc điều động người lao động, người lãnh đạo đình công sang làm công việc khác, đi làm việc ở nơi khác vì lý do chuẩn bị đình công hoặc tham gia đình công.

5. Trù dập, trả thù người lao động tham gia đình công, người lãnh đạo đình công.

6. Lợi dụng đình công để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật."

4. Thực trạng đình công ở Việt Nam hiện nay

Tranh chấp lao động, đình công hiện đang là điểm nóng của trong quan hệ lao động của các doanh nghiệp. Theo số liệu thống kê, từ khi Bộ luật Lao động có hiệu lực thi hành đến hết năm 2009, cả nước đã xảy ra 2863 cuộc đình công[1], bình quân 190,8 cuộc/năm. Số các vụ đình công diễn ra theo xu thế tăng dần trong suốt giai đoạn từ 1995 (chỉ có 50 vụ) đến đỉnh điểm là năm 2008 (652 vụ), sau đó giảm mạnh vào năm 2009 (chỉ 216 vụ). Tuy nhiên, đến năm 2010, số các vụ đình công tiếp tục gia tăng. Theo số liệu của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2010 đã có trên 200 vụ đình công trên phạm vi cả nước. Trong số các cuộc đình công được đề cập trên, có 70,5% số cuộc xảy ra ở các doanh nghiệp FDI; 24,8% ở các doanh nghiệp dân doanh và 4,6% ở các doanh nghiệp nhà nước.
Một số giải pháp hạn chế tình trạng đình công:
Một là, cần kiện toàn các tổ chức làm công tác trọng tài và hoà giải và nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức này.
Hai là, cần tiếp tục hoàn thiện quy định về tổ chức công đoàn cơ sở và tăng cường hoạt động của tổ chức này. Cần xác định:
Ba là, cần thúc đẩy hoạt động đối thoại xã hội trong doanh nghiệp giữa người sử dụng lao động và người lao động, giữa nhà quản lý và nhân viên.
Bốn là, VCCI nên tổ chức các lớp tập huấn phổ biến về văn hoá Việt Nam và Luật lao động Việt Nam cho người nước ngoài làm quản lý ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời, phía các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nên tổ chức giới thiệu văn hoá của nước bỏ vốn đầu tư cho cán bộ và công nhân Việt Nam làm việc ở doanh nghiệp đó. Có thể ban hành quy định ở cấp quốc gia về vấn đề này.
Năm là, cần tiếp tục nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước.

Luật Minh Khuê (sưu tầm & phân tích)