Mục lục bài viết
- CÁC TỪ VIẾT TẮT
- Tranh chấp 04: Về trình tự thủ tục triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ bất thường trong công ty cổ phần
- Tranh chấp số 05: Về việc chuyển nhượng cổ phần
- Tranh chấp số 06: Tranh chấp về quyền mua cổ phần phát hành mới và trình tự thủ tục cuộc họp Đại hội đồng cổ đông
- Tranh chấp số 07: Tranh chấp về trình tự thủ tục thông qua quyết định cuộc họp ĐHĐCĐ và quyền quản lý công ty cổ phần
- Tranh chấp số 08: tranh chấp giữa các cổ đông về việc bổ sung nội dung chương trình họp ĐHĐCĐ
- Tranh chấp số 09: Tranh chấp về bổ nhiệm và bãi miễn Tổng Giám đốc – người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần
- PHẦN III. ĐÁNH GIÁ TỔNG KẾT TỪ THỰC TIỄN CÁC TRANH CHẤP ĐIỂN HÌNH TRONG DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
- I. Nguyên nhân
- II. Kiến nghị
>> Luật sư tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp trực tuyến gọi số: 1900.6162
BÁO CÁO MỘT SỐ TRANH CHẤP ĐIỂN HÌNH TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
(LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN LUẬT DOANH NGHIỆP)
MỞ ĐẦU
Sự hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta trong hai mươi năm qua được diễn ra trong bối cảnh các quan hệ kinh tế phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu với một tốc độ nhanh chóng chưa từng có. Tranh chấp trong kinh tế nói chung và trong Doanh nghiệp Việt Nam liên quan đến việc thực hiện Luật Doanh nghiệp nói riêng vì thế cũng có xảy ra thường xuyên và đa dạng hơn. Bởi vậy, yêu cầu xác định và nhận diện các loại tranh chấp cũng như những nguyên nhân làm phát sinh tranh chấp trong Doanh nghiệp Việt Nam liên quan đến việc thực hiện Luật Doanh nghiệp là một đòi hỏi tất yếu khách quan để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh tế.
Với yêu cầu như trên, Nhóm tác giả hy vọng Báo cáo này sẽ chỉ ra được những nguyên nhân khách quan và chủ quan của các tranh chấp góp phần thúc đẩy việc thi hành Luật Doanh nghiệp 2005 và là nguồn tham khảo hữu ích cho công tác hoàn thiện Luật Doanh nghiệp 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Nhóm tác giả cố gắng thực hiện báo cáo này trên cơ sở tiếp nối Báo cáo “Tập hợp các tranh chấp điển hình liên quan đến thực hiện Luật Doanh nghiệp (1999)“ được Viện nghiên cứu Quản lý kinh tê Trung ương và Dự án Hỗ trợ cải cách thể chế phát triển kinh doanh – Vie 01/025 thực hiện năm 2002. Nhóm tác giả cũng nhận thức rằng, các tranh chấp được tập hợp trong báo cáo chưa phải đã đại diện cho hầu hết các tranh chấp xảy ra trong thực tế đời sống của doanh nghiệp, nội dung và phương pháp trình bày trong từng trường hợp là đầu đủ, hoàn hảo và không sai sót. Vì vậy, rất mong nhận được sự bổ sung, gợi ý và đóng góp ý kiến để ngày càng làm phong phú hơn, đầy đủ hơn và chính xác hơn bộ sưu tập tranh chấp điển hình liên quan đến thực hiện Luật Doanh nghiệp.
CÁC TỪ VIẾT TẮT
BKS : Ban Kiểm soát
CP : Cổ phần
CTCP : Công ty cổ phần
DNNN : Doanh nghiệp Nhà Nước
ĐHĐCĐ : Đại hội đồng cổ đông
ĐKKD : Đăng ký kinh doanh
ĐLM : Điều lệ mẫu
GCN ĐKKD : Giấychứng nhận đăng ký kinh doanh
GCN ĐKKD và ĐKT :Giấychứng nhận đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế
HĐQT : Hội đồng quản trị
HĐTV : Hội đồng thành viên
LDN : Luật Doanh nghiệp
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
PHẦN I. MỤC ĐÍCH, PHẠM VI CỦA BÁO CÁO
I. Mục đíc của báo cáo.
Trong phạm vi Báo cáo “Tập hợp một số loại tranh chấp điển hình trong các doanh nghiệp Việt Nam“ mục tiêu của Nhóm tác giả là tìm hiểu, phân tích và làm rõ hàng loạt các vấn đề thực tiễn có liên quan đến các tranh chấp điểm hình diễn ra trong nội bộ doanh nghiệp; những nguyên nhân làm phát sinh tranh chấp trong điều kiện Việt Nam, qua đó đưa ra được các giải pháp góp phần nhằm nâng cao hiệu quả quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp hiện nay. Báo cáo còn là tài liệu tham khảo có ý nghĩa đối với những thành viên, cổ đông, người quản lý, điều hành doanh nghiệp trong việc xây dựng mối quan hệ tin cậy, tôn trọng lẫn nhau, cùng có lợi và vì sự phát triển chung của doanh nghiệp.
II. Phạm vi của báo cáo.
Sau hơn 20 năm đổi mới, hệ thống doanh nghiệp Việt Nam ta đã và đang từng bước hình thành và phát triển; đông đảo về số lượng, đa dạng về loại hình và quy mô ngày càng lớn do môi trường kinh doanh đa dạng và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến tháng 03/2009 cả nước có gần 350.000 doanh nghiệp với số vốn đăng ký lên đến 1.389.000 tỷ đồng (tương đương với 84,1 tỷ USD) trong đó 95% là các doanh nghiệp vừa và nhỏ[1].Loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm gần 47% số doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp tư nhân chiếm 36,4% và công ty cổ phần chiếm hơn 15%. Sự phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên các lĩnh vực phát triển kinh tế, đặc biệt ở khu vực chế biến, bán lẻ và dịch vụ thời gian qua đã góp phần không nhỏ trong GDP của cả nước. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện đang chiếm 50% giá trị công nghiệp chế biến thủy sản, 30% giá trị ngành công nghiệp dệt may. Khu vực này cũng là nơi thu hút hơn 90% số lao động mới hàng năm. Mục tiêu đến năm 2010, cả nước có 500.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh (bao gồm cả các loại công ty và doanh nghiệp tư nhân).
Đạt được kết quả nói trên do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là chủ trương đổi mới phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường và việc thể chế hóa một cách hợp lý chủ trương đó thành hệ thống pháp luật về doanh nghiệp như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành các Luật này. Đặc biệt là bắt đầu từ năm 2000, với sự ra đời và có hiệu lực của Luật Doanh nghiệp 1999 (và sau này là Luật Doanh nghiệp 2005) đã thực sự thổi một luồng sinh khí mới vào môi trường kinh doanh. Hàng chục nghìn doanh nghiệp mới được thành lập, bổ sung thêm vốn, mở rộng quy mô và địa bàn kinh doanh đã thực sự góp phần vào tăng trưởng kinh tế, tạo thêm nhiều công ăn việc làm mới và góp phần không nhỏ vào xoá đói giảm nghèo...
Tác dụng tích cực của Luật Doanh nghiệp đã được Chính phủ, dư luận trong nước và quốc tế đánh giá cao và được cộng đồng doanh nghiệp tích cực ủng hộ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy số lượng và quy mô doanh nghiệp tăng cũng đã làm gia tăng số lượng các tranh chấp trong doanh nghiệp Việt Nam. Quan sát thực tế chúng tôi nhận thấy sự tranh chấp trong doanh nghiêp Việt Nam có các nhóm chính sau:
Theo đối tượng tham gia tranh chấp, ta có các nhóm:
(i). Tranh chấp giữa chủ doanh nghiệp (cổ đông, thành viên, chủ sở hữu công ty) và người quản lý doanh nghiệp;
(ii). Tranh chấp giữa các cổ đông, giữa các thành viên về việc góp vốn, chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp
(iii). Tranh chấp giữa doanh nghiệp với các cơ quan quan quản lý Nhà nước;
Theo khách thể của tranh chấp, ta có các nhóm:
(i). Quyền tham dự cuộc họp ĐHĐCĐ của cổ đông phổ thông
(ii). Quyền được ưu tiên mua cổ phần mới chào bán của cổ đông phổ thông.
(iii). Trình tự, thủ tục triệu tập, họp và thông qua quyết định của ĐHĐCĐ.
(iv). Chuyển nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập.
(v). Chuyển nhượng phần vốn góp trong công ty TNHH hai thành viên trở lên.
(vi). Thay đổi thành viên trong công ty TNHH hai thành viên trở lên.
(vii). Việc góp vốn của thành viên Công ty TNHH, của cổ đông sáng lâp Công ty CP và việc phân chia lợi nhuận
(viii). Bầu bãi miễn thành viên HĐQT; bổ nhiệm Giám đốc/Tổng Giám đốc; thay thế người đại diện theo pháp luật.
(ix). Giám đốc, HĐQT quyết định vượt thẩm quyền hoặc không thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ, Luật Doanh nghiệp.
Tập hợp các tranh chấp điển hình trong doanh nghiệp sẽ được tiếp cận dưới nhiều giác độ và trong suốt quá trình 10 năm thi hành Luật doanh nghiệp; bao gồm các tranh chấp được các Toà án của Việt Nam phân xử, các tranh chấp thực tế phát sinh và được giải quyết thông qua các biện pháp hành chính, các tranh chấp khác được sưu tầm và tuyển chọn thực tế tiếp xúc và tư vấn,... Các tranh chấp chọn lọc trong Báo cáo sẽ được biên soạn trên nguyên mẫu có kết hợp bổ sung, sửa đổi và trong chừng mực nhất định có đưa ra một số giả định vừa đảm bảo tính đa dạng vừa bảo đảm tính thực tế của tranh chấp (tên các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức được sử dụng trong từng tình huống có thể sẽ được hư cấu, tuy nhiên vẫn đảm bảo không nhằm cụ thể hoá bất kỳ một mục đích cá nhân nào).
Nội dung của từng tranh chấp chủ yếu được trình bày thành 04 phần: (i) Tóm tắt nội dung tranh chấp; (ii) Các vấn đề đặt ra trong tranh chấp; (iii) Giải quyết tranh chấp và (iii) Nguyên nhân và bài học.
PHẦN II: MỘT SỐ TRANH CHẤP ĐIỂN HÌNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Tranh chấp 01: Về quyền dự họp và trình tự, thủ tục triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ
1. Tóm tắt nội dung tranh chấp
Ngày 26/12/2002, UBND tỉnh H ra quyết định chuyển đổi công HT (là một DNNN) thành Công ty cổ phần HT; trong đó, số cổ phần bán giá ưu đãi cho người lao động chiếm 58,2% (gọi tắt là cổ phần ưu đãi); số cổ phần bán bình thường là 41,8%.
Sau khi chuyển đổi, được sự đồng ý của UBND tỉnh, Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp của công ty tổ chức Đại hội cổ đông các ngày 14-15/4/2003, nhưng chỉ mời các cổ đông nắm giữ cổ phần mua với giá ưu đãi.
Ngay sau Đại hội cổ đông, mười lăm cổ đông không được mời tham gia ĐHĐCĐ đã có đơn khởi kiện yêu cầu Toà án hủy bỏ quyết định của Đại hội cổ đông vừa được thông qua với các lý do:
- Không cho cổ đông sở hữu cổ phiếu phổ thông dự đại hội là vi phạm Luật Doanh nghiệp 1999.
- Không phát cho cổ đông Dự thảo điều lệ công ty trước từ 7 đến 15 ngày là vi phạm luật.
- Bỏ phiếu và biểu quyết chưa hợp lệ.
Đại diện Công ty cho rằng việc tiến hành Đại hội cổ đông chỉ với số cổ phiếu được mua ưu đãi là căn cứ vào Quyết định của UBND tỉnh và căn cứ vào đề nghị của công nhân trong công ty. Dự thảo điều lệ Công ty tuy không phát cho các cổ đông song đã họp thảo luận thông qua 3 tổ sản xuất trước khi họp. Còn Nghị quyết đại hội và những người không đủ số cổ phiếu theo quy định của điều lệ công ty trúng cử vào Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát là do đại hội chỉ lấy số cổ phiếu ưu đãi làm căn cứ.
Tòa án Nhân dân tỉnh H đã thụ lý vụ án.
2.Các vấn đề đặt ra trong tình huống
· Quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông của cổ đông
· Mời họp ĐHĐCĐ và tài liệu gửi kèm giấy mời họp
· Quyền điều hành công khi ĐHĐCĐ chưa bầu ra Hội đồng quản trị
3. Giải quyết vấn đề
Vấn đề 1: quyền dự họp của ĐHĐCĐ
Căn cứ vào bản khai của các cổ đông, lời khai đại diện Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp Công ty và các tài liệu có tại hồ sơ vụ kiện thì toàn bộ cổ phiếu của công ty đã được bán hết trước ngày tiến hành ĐHĐCĐ. Như vậy, những người đã mua cổ phần của Công ty dù là mua ưu đãi hay mua không được ưu đãi đều đã là cổ đông của Công ty trước ngày tiến hành họp ĐHĐCĐ.
Điều 53 Luật Doanh nghiệp 1999 quy định:
“1. Cổ đông phổ thông có quyền:
a) Tham dự và biểu quyết tất cả các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông; mỗi cổ phần phổ thông có một phiếu biểu quyết;“
Như vậy, theo qui định tại Điều 53, điều 70 của LDN 1999 thì tất cả các cổ đông phải được tham dự Đại hội cổ đông để biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội cổ đông, hơn nữa đây là Đại hội lần đầu để thông qua Điều lệ công ty, bầu Hội đồng quản trị và ban kiểm soát của Công ty, thông qua định hướng phát triển công ty.
Từ đó cho thấy việc Ban Đổi mới tổ chức cuộc họp ĐHĐCĐ lần đầu mà không mời những cổ đông thường (không được mua cổ phần ưu đãi) là vi phạm điều 53, điều 70 LDN 1999.
Vấn đề 2: Mời họp ĐHĐCĐ và tài liệu gửi kèm giấy mời họp
Điều 74 LDN 1999 quy định:
“1. Người triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông phải gửi giấy mời họp đến tất cả cổ đông có quyền dự họp chậm nhất bảy ngày trước ngày khai mạc.
2. Kèm theo giấy mời họp phải có chương trình họp, các tài liệu thảo luận làm cơ sở để thông qua quyết định“.
Trước khi Đại hội cổ đông, Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp công ty không gửi giấy mời họp đến tất cả các cổ đông có quyền dự họp, chương trình họp và các tài liệu có liên quan (như các tài liệu về vốn, Dự thảo điều lệ, phương hướng hoạt động của Công ty...) là vi phạm Điều 74 Luật doanh nghiệp 1999.
Với những phân tích trên thì cuộc họp ĐHĐCĐ ngày 14-15/04/2003 được triệu tập không đúng trình tự thủ tục quy định tại LDN 1999 và do đó Nghị quyết của cuộc họp này là không hợp pháp.
Vấn đề 3: Quyền điều hành công khi ĐHĐCĐ chưa bầu ra Hội đồng quản trị
Tòa án sơ thẩm đã hủy nghị quyết đại hội cổ đông Công ty CP HT.
Tuy nhiên, Tòa sơ thẩm lại có sự nhầm lẫn khi vẫn công nhận bản Điều lệ được cuộc họp bị hủy thông qua khi căn cứ vào bản Điều lệ này để kết luận cuộc họp ĐHĐCĐ có vi phạm và giao quyền quản lý Công ty cho Hội đồng quản trị được bầu trong cuộc họp này trong thời gian chờ tiến hành họp lại HĐCĐ theo quy định của pháp luật.
Dễ dàng nhận thấy rằng, do quyết định Đại hội cổ đông bị hủy nên nghị quyết thông qua Điều lệ công ty cũng bị hủy bỏ nên thực tế Công ty Cổ phần HT chưa có Điều lệ công ty nhưng Tòa án sơ thẩm lại căn cứ vào các điều khoản của bản Điều lệ công ty đã được thông qua tại "Đại hội cổ đông" để cho rằng Đại hội trên có vi phạm là không chính xác. Mặt khác Tòa án cấp sơ thẩm vẫn giao cho Hội đồng quản trị đã được bầu tại ĐHĐCĐ tiếp tục điều hành Công ty là không đúng (vì cuộc họp đã bị hủy bỏ nên đương nhiên HĐQT chưa được bầu). Mà cần giao cho Ban điều hành cũ điều hành Công ty cho đến khi đại hội cổ đông bầu đựơc Hội đồng quản trị hợp pháp mới đúng.
Những sai sót trên đã được sửa chữa trong quyết định phúc thẩm.
4. Nguyên nhân và bài học
Theo quy định của Luật DN 1999 thì tất cả các cổ đông phổ thông đều phải được tham dự và biểu quyết tất cả các vấn đề thuộc thẩm quyền ĐHĐCĐ tại cuộc họp ĐHĐCĐ nên việc chỉ mời họp những cổ đông mua cổ phần theo giá ưu đãi là vi phạm nghiêm trọng quyền của cổ đông.
Người mời họp phải gửi giấy mời họp đến từng cổ đông chậm nhất 07 ngày trước ngày khai mạc cuộc họp, kèm theo giấy mời họp phải có chương trình họp, các tài liệu thảo luận làm cơ sở để thông qua quyết định
Có thể nói rằng Tranh chấp này bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết các quy định trong Luật Doanh nghiệp của Ban đổi mới phát triển doanh nghiệp tại Công ty HT và một số cơ quan nhà nước tại tỉnh H (bao gồm cả cơ quan xét xử). Sự việc sẽ đơn giản và tránh được thiệt hại cho các cổ đông công ty HT nếu các cơ quan này cẩn trọng hơn trong việc thực hiện các quy định của pháp luật. Thực tế, cuộc họp ĐHĐCĐ thành lập công ty cổ phần của Công ty HT sau khi được tổ chức lại theo quyết định của Tòa án lại bị một nhóm cổ đông khởi kiện ra tòa và vụ kiện này phải thực hiện đến thủ tục Giám đốc thẩm (kéo dài đến tháng 06/2006).
Mặt khác, sự hiểu biết và tuân thủ các quy định của Luật Doanh nghiệp nói riêng và pháp luật nói chung của một bộ phận cổ đông, người quản lý doanh nghiệp chưa tốt cũng góp phần làm phát sinh tranh chấp trong doanh nghiệp, chưa kể đến việc khiếu kiện kéo dài thường làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của chính doanh nghiệp đó.
Thời điểm diễn ra tranh chấp này xảy ra khi Luật Doanh nghiệp mới có hiệu lực được hơn 02 năm nên chưa thẩm thấu được vào tư duy của cổ đông (đặc biệt đối với những người lao động trở thành cổ đông của công ty sau quá trình cổ phần hóa), người quản lý công ty, cơ quan quản lý nhà nước vì vậy, vấn đề đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến các đối tượng trên là vấn đề được rút ra và cần được đẩy mạnh trong suốt quá trình thực hiện pháp luật.
Tranh chấp số 03: Tranh chấp giữa các cổ đông về việc gips vốn thành lập, hoạt động và giải thể công ty cổ phần
1. Tóm tắt Tranh chấp
Ông Trường, bà Thu, Liên, Lan, Loan góp vốn thành lập Công ty CP thẩm mỹ XT địa chỉ trụ sở chính tại 139A-139B Nguyễn Trãi, Phường Bến Thành, Quận 1, TP HCM với ngành, nghề kinh doanh gồm mua bán mỹ phẩm, trang thiết bị y tế, dụng cụ thẩm mỹ; y ngoại tổng quát; đào tạo nghề. Công ty CP Thẩm mỹ XT được Sở Kế hoạch Đầu tư thành phố HCM cấp GCNĐKKD lần đầu ngày 10/05/2006. Theo GCN ĐKKD này, danh sách cổ đông sáng lập gồm bà Thu có số cổ phần là 5.000; ông Trường là 2.000 cổ phần, còn lại các bà Lan, Liên và Loan mỗi người có 1.000 cổ phần; ông Trường là Giám đốc và là người đại diện theo pháp luật của Công ty.
Trước đó, ngày 21/4/2006, ông Trường và bà Thu có ký với nhau một hợp đồng hợp đồng thỏa thuận hợp tác thành lập Công ty Cổ phần Thẩm Mỹ XT (sau đây gọi tắt là Công ty XT) kinh doanh ngành nghề phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ, địa chỉ tại số 1 Nguyễn Trãi, TP.H, với các điều khoản như sau : bà Thu góp vốn bằng căn nhà số 1 Nguyễn Trãi, TP.H còn ông Trường góp bằng tiền sửa chữa mặt bằng, đầu tư trang thiết bị và đầu tư thành lập Công ty, trong đó, thể hiện phần góp vốn của bà Thu bằng căn nhà số 1 Nguyễn Trãi, TP.H (trong khi căn nhà này thuộc sở hữu chung của Lan, Liên và bà Thu); ông Trường góp vốn bằng tiền sửa chữa mặt bằng, đầu tư trang thiết bị, đầu tư thành lập công ty; các thành viên khác không góp vốn (không có quyền sở hữu tài sản công ty và không được phân chia lợi nhuận). Đồng thời, chia lợi nhuận sau khi trừ chi phí hoạt động, được chia đều 50% cho bà Thu và ông Trường. Ông Trường cam kết là mình có đủ điều kiện để hành nghề phẫu thuật thẩm mỹ.
Tại điều 6 của hợp đồng hợp tác ngày 21/4/2006 đã nêu “Trường hợp ông Trường tự ý ngưng hợp đồng trước thời hạn thì toàn bộ trang thiết bị đã đầu tư sẽ thuộc quyền sở hữu của bà Thu kèm 50.000 USD tiền mặt.Trường hợp bà Thu tự ý ngưng hợp đồng trước thời hạn thì toàn bộ trang thiết bị đã đầu tư sẽ thuộc quyền sở hữu của ông Trường kèm 50.000 USD tiền mặt‘’.
Công ty đi vào hoạt động được hơn 02 tháng và ông Trường đã 02 lần thực hiện dịch vụ phẫu thuật thẩm mỹ cho khách hàng trong khi cả bà Thu và ông Trường đều biết Công ty XT không đăng ký kinh doanh ngành nghề phẫu thuật thẩm mỹ và ông Trường cũng không có chứng chỉ hành nghề phẫu thuật thẩm mỹ theo quy định của pháp luật.
Do khách hàng có đơn khiếu nại về chất lượng thực hiện các ca phẫu thuật do ông Trường thực hiện thì Ông Trường thừa nhận không có bằng cấp chuyên môn lĩnh vực này và đề nghị sẽ thuê bằng của bác sĩ có chuyên môn để tiếp tục hoạt động kinh doanh, bà Thu không chấp nhận vì đây là hành vi kinh doanh trái phép. Ngày 12/07/2006, các cổ đông thống nhất tạm ngừng kinh doanh, nhưng ông Trường và Loan không ký vào biên bản này. Sau đó, bà Thu đóng cửa trụ sở Công ty, ngưng hợp đồng với ông Trường trước thời hạn, và giữ toàn bộ GCN ĐKKD, dấu mộc của Công ty và khoá cửa không cho nhân viên của Công ty vào làm việc.
Ngoài ra, ngày 12/7/2006 hai bên đã liệt kê tài sản của Công ty, ngày 28/9/2006 lập biên bản thanh lý tài sản và ngày 29/9/2006. Ông Trường và Bà Thu đã nhận phần tài sản của mình và xác nhận phần tài sản còn lại thuộc về bên kia mà không có thắc mắc gì.
Ông Trường cho rằng bà Thu đã vi phạm điều 6 hợp đồng hợp tác ký ngày 21/04/2006 nên đòi bà Thu bồi thường là 800.000.000 đồng tương đương với 50.000 USD và trả lại bằng tiền là 404.788.960 đồng, đây là trị giá toàn bộ trang thiết bị mà Công ty đã đầu tư trong thời gian hoạt động.
Bà Thu cho rằng, ông Trường đã lừa dối về việc mình có đủ điều kiện hành nghề phẫu thuật thẩm mỹ khi hai bên ký hợp đống vì trước đó, ông Trường tự nhận mình là bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ có trình độ cao, có nhiều khách hàng và đã dẫn bà Thu đến cơ sở hành nghề là Trung tâm chăm sóc sắc đẹp A cũng tại TP.H, nên không chấp nhận bồi thường.
Ông Trường đã kiện bà Thu ra tòa để đòi bồi thường như trên. Tòa án nhân dân TP H đã thụ lý vụ kiện và đưa ra xét xử.
2. Các vấn đề đặt ra trong tranh chấp:
· Đây là tranh chấp về hợp đồng hợp tác hay là tranh chấp giữa các cổ đông trong việc thành lập, hoạt động và giải thể công ty cổ phần.
· Những vi phạm của Công ty XT và các cổ đông trong việc đăng ký kinh doanh và hoạt động.
· Việc góp vốn của các cổ đông
· Việc tạm dừng kinh doanh như thế nào là hợp pháp?
· Việc người không phải đại diện theo pháp luật của công ty chiếm giữ GCN ĐKKD, con dấu có hợp pháp không?
3. Giải quyết vấn đề:
Vấn đề thứ 1: Đây là tranh chấp về hợp đồng hợp tác hay là tranh chấp giữa các cổ đông trong việc thành lập, hoạt động và giải thể công ty cổ phần
Theo nội dung đơn kiện của ông Trường thì đây là một vụ tranh chấp hợp đồng hợp tác góp vốn kinh doanh. Ông Trường đòi bà Thu bồi thường do đã đơn phương dừng hợp đồng hợp tác. Nhưng bản chất của tranh chấp này là tranh chấp giữa các cổ đông của công ty cổ phần trong việc góp vốn, thành lập, hoạt động và giải thể công ty. Hợp đồng hợp tác là một thỏa thuận góp vốn trước khi đăng ký kinh doanh.
Trước khi hợp tác kinh doanh với bị đơn ông Trường đã hoạt động hành nghề phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ tại Trung tâm chăm sóc sắc đẹp A, TP.H và khi thực hiện việc hành nghề này Ông Trường chưa được cấp chứng chỉ hành nghề nêu trên, (việc này được thể hiện trong Công văn số ngày 29/8/2006 của Thanh tra Sở Y tế TP. H có nội dung thể hiện ông Trường hành nghề không có bằng cấp hoặc chứng chỉ chuyên môn phù hợp nên đã bị phạt theo quy định).
Như vậy, việc bà Thu cho rằng đã bị lừa dối khi ký hợp đồng hợp tác là có cơ sở, bởi lẽ, tại điều 3 trong hợp đồng ghi rõ ông Trường chịu trách nhiệm về chuyên môn phẫu thuật.
Ông Trường cho rằng hai bên thỏa thuận trong hợp đồng ông Trường chịu trách nhiệm chuyên môn phẩu thuật, tuyển nhân sự có nghĩa là ông Trường không phải là người trực tiếp phẫu thuật mà sẽ tuyển người có bằng cấp hành nghề này, xét ý kiến này là không thể chấp nhận, bởi lẽ, trong các nội dung quảng cáo về hoạt động kinh doanh của Công ty CP Đầu tư Thẩm mỹ XT đã thể hiện ông Trường phụ trách khâu phẫu thuật thẩm mỹ, tạo hình. và Công ty cũng không có người nào khác thực hiện chuyên môn này,
Do đó, căn cứ theo điều 131 Bộ Luật Dân sự năm 2005, có cơ sở để xác định hợp đồng hợp tác ngày 21/4/2006 bị vô hiệu toàn bộ do bị nhầm lẫn ngay từ thời điểm xác lập vì ông Trường đã cố ý làm cho bà Thu nhầm lẫn về nội dung giao dịch mà xác lập việc giao dịch trên với nguyên đơn, vì vậy, căn cứ điều 137 Bộ luật Dân sự quy định thì giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập, do đó, các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền.
Mặt khác, căn cứ vào biên bản kiểm kê tài sản ngày 12/7/2006 và biên bản thanh lý tài sản ngày 28/9/2006 lập biên bản thanh lý tài sản và xác nhận đã nhận phần tài sản của mình và xác nhận phần tài sản còn lại thuộc về bên kia mà không có thắc mắc gì của ông Trường và Bà Thu thì về cơ bản hai bên đã khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã góp theo Hợp đồng hợp tác.
Hợp đồng hợp tác bị vô hiệu cần phải huỷ và hậu quả của việc giao dịch vô hiệu được giải quyết theo quy định của khoản 1 và 2 điều 137 Bộ luật Dân sự, bên có lỗi gây ra thiệt hại phải bồi thường. Căn cứ nội dung GCNĐKKD, Công ty chỉ được kinh doanh mua bán mỹ phẩm, trang thiết bị y tế, dụng cụ thẫm mỹ; y ngoại tổng quát; đào tạo nghề, tuy nhiên, theo lời các bên thừa nhận sau khi Công ty hoạt động đã thực hiện ngành nghề phẫu thuật tạo hình thẩm my, mặc dù, tại phiên Tòa phía ông Trường cho rằng ông Trường đã thực hiện hai ca phẫu thuật thẩm mỹ cho khách hàng bạn bà Thu là thực hiện theo yêu cầu của bà Thu. Như vậy, hoạt động kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp không đăng ký kinh doanh đã vi phạm theo điều 9 điều 11 Luật Doanh nghiệp năm 2005. Đồng thời, việc hoạt động ngành nghề kinh doanh phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ thuộc ngành nghề kinh doanh có điều kiện, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề nhưng Công ty không đáp ứng nhưng vẫn cố tình hoạt động kinh doanh là hành vi bị cấm vi phạm điều 6 Luật Doanh nghiệp năm 1999 và điều 11 Luật Doanh nghiệp năm 2005.
Như vậy, có cơ sở để xác định nguyên nhân dẫn đến hợp đồng hợp tác bị vô hiệu là do lỗi của ông Trường vì không có chứng chỉ hành nghề kinh doanh theo thỏa thuận khi hợp tác, tuy nhiên, phía bà Thu khi giấy chứng nhận kinh doanh được cấp vào ngày 10/5/2006 biết không được cấp phép hành nghề như thỏa thuận nhưng vẫn đồng ý chấp nhận cho ông Trường bổ sung ngành nghề và để Công ty tiếp tục hoạt động kinh doanh ngành nghề không đăng ký, không đủ điều kiện kinh doanh trong 2 tháng đến 12/7/2006 mới chấm dứt hoạt động kinh doanh vì vậy đã rút lại yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại, tự chịu tổn thất phát sinh do việc hợp tác kinh doanh với ông Trường vì đã mất thu nhập cho thuê nhà trong 4 tháng là 200.000.000 đồng. Như đã phân tích trên bà Thu không có lỗi trong việc giao dịch này vì ý chí của hai bên khi ký thỏa thuận hợp tác kinh doanh ngày 21/4/2006 thì ngoài các ngành nghề được phép kinh doanh còn phải có hoạt động hành nghề về phẫu thuật, trong khi, ông Trường không có bằng cấp về chuyên môn phẫu thuật nên thỏa thuận này là trái luật, do đó, nghĩ nên bác yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại là 800.000.000 đồng tương đương 50.000 USD của ông Trường .
Hộp 1
Về vụ việc nêu trên, theo Bản án sơ thẩm số ngày 18 / 10 / 2007, Tòa án Nhân dân Thành phố H đã quyết định:
1- Tuyên bố hợp đồng thỏa thuận hợp tác lập ngày 21/4/2006 ký giữa ông Trường và bà Thu bị vô hiệu toàn bộ.
2- Kiến nghị Sở Kế hoạch và đầu tư Thành phố H xử lý hành vi vi phạm luật Doanh nghiệp đối với Công ty CP Đầu tư Thẩm Mỹ Xuân Trường về việc không thực hiện việc kê khai trung thực, không chính xác về nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh.
3- Không chấp nhận yêu cầu của ông Trường về việc đòi bà Thu phải bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng hợp tác là 800.000.000 đồng tương đương 50.000 USD và phải trả lại bằng tiền Việt nam là 404.788.960đồng gồm trị giá toàn bộ trang thiết bị đã đầu tư trong thời gian hoạt động Công ty CP Thẩm mỹ XT.
Vấn đề thứ 2: Những vi phạm của Công ty cổ phần XT trong đăng ký kinh doanh và hoạt động.
(i) Không trung thực trong hồ sơ đăng ký kinh doanh
Căn cứ hợp đồng hợp tác ngày 21/4/2006 ký giữa ông Trường và bà Thu chỉ có hai người này góp vốn thành lập Công ty Cổ phần Thẩm mỹ XT, bà Thu góp vốn bằng căn nhà số 1, Nguyễn Trãi, TP.H còn ông Trường góp bằng tiền sửa chữa mặt bằng, đầu tư trang thiết bị và đầu tư thành lập Công ty, trong đó, thể hiện phần góp vốn của bà Thu bằng căn nhà số 1, Nguyễn Trãi, Q. 1 TP.H (trong khi căn nhà này thuộc sở hữu chung của Lan, Liên và bà Thu); ông Trường góp vốn bằng tiền sửa chữa mặt bằng, đầu tư trang thiết bị, đầu tư thành lập công ty; các thành viên khác không góp vốn (không có quyền sở hữu tài sản công ty và không được phân chia lợi nhuận). Đồng thời, chia lợi nhuận sau khi trừ chi phí hoạt động, được chia đều 50% cho bà Thu và ông Trường. Nhưng hồ sơ đăng ký kinh doanh, danh sách cổ đông sáng lập gồm bà Thu có số cổ phần là 5.000; ông Trường là 2.000 cổ phần, còn lại các bà Lan, Liên và Loan mỗi người có 1.000 cổ phần.
Bà Liên và bà Lan là đồng sở hữu căn nhà và là thành viên của Công ty CP XT, tuy nhiên, hai bà này không góp vốn cùng kinh doanh. Về hợp đồng hợp tác giữa nguyên đơn và bị đơn hai bà này không rõ chỉ biết nguyên đơn chịu trách nhiệm về chuyên môn phẫu thuật thẩm mỹ nên hai bà cùng ký tên vào hợp đồng hợp tác ngày 21/4/2006. Bà Loan xác nhận về hình thức bà là thành viên Công ty, thực tế không góp vốn và không rõ về hoạt động kinh doanh của Công ty.
Như vậy, việc ghi tên và phần góp vốn của các bà Liên, Lan và Loan vào hồ sơ đăng ký kinh doanh là nhằm hợp thức hoá thủ tục thành lập Công ty, thực tế toàn bộ vốn góp là do ông Trường và bà Thu bỏ ra. Vì thế, việc hoạt động kinh doanh của Công ty CP Thẩm Mỹ XT đã không thực hiện việc kê khai trung thực, không chính xác về nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp 1999 (theo khoản 4 Điều 120).
(ii) Kinh doanh ngành nghề chưa đăng ký:
Căn cứ nội dung GCNĐKKD, Công ty chỉ được kinh doanh mua bán mỹ phẩm, trang thiết bị y tế, dụng cụ thẫm mỹ. Y : ngoại tổng quát, đào tạo nghề. Tuy nhiên, Công ty hoạt động đã thực hiện ngành nghề phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ cho hai khách hàng và chính ông Trường là người thực hiện.
Điều 6 Luật Doanh nghiệp 1999:
“1. Theo quy định của pháp luật, doanh nghiệp được tự chủ đăng ký và thực hiện kinh doanh các ngành, nghề không thuộc đối tượng quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này.
….
3. Đối với doanh nghiệp kinh doanh các ngành, nghề mà luật, pháp lệnh hoặc nghị định quy định phải có điều kiện, thì doanh nghiệp chỉ được kinh doanh các ngành, nghề đó khi có đủ các điều kiện theo quy định.
4. Đối với doanh nghiệp kinh doanh các ngành, nghề mà luật, pháp lệnh hoặc nghị định đòi hỏi phải có vốn pháp định hoặc chứng chỉ hành nghề, thì doanh nghiệp đó chỉ được đăng ký kinh doanh khi có đủ vốn hoặc chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật“.
Điều 8 Luật Doanh nghiệp 1999:
“Doanh nghiệp hoạt động theo quy định của Luật này có nghĩa vụ:
1. Hoạt động kinh doanh theo đúng các ngành, nghề đã đăng ký;...“
Điều 9 Luât Doanh nghiệp 2005:
“1. Hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong Gi��y chứng nhận đăng ký kinh doanh; bảo đảm điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật khi kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện...“.
Điều 11 Luật Doanh nghiệp 2005:
“...2. Hoạt động kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp mà không đăng ký kinh doanh hoặc tiếp tục kinh doanh khi đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
3. Kê khai không trung thực, không chính xác nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh; kê khai không trung thực, không chính xác, không kịp thời những thay đổi trong nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh...“.
Như vậy, hoạt động kinh doanh phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ dưới hình thức doanh nghiệp không đăng ký kinh doanh đã vi phạm điều 6, điều 8 Luật Doanh nghiệp năm 1999 và điều 9 điều 11 Luật Doanh nghiệp năm 2005. Đồng thời, việc hoạt động ngành nghề kinh doanh phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ thuộc ngành nghề kinh doanh có điều kiện, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề nhưng Công ty không đáp ứng nhưng vẫn cố tình hoạt động kinh doanh là hành vi bị cấm vi phạm điều 6 Luật Doanh nghiệp năm 1999 và điều 11 Luật Doanh nghiệp năm 2005.
Vấn đề thứ 3: Việc góp vốn của các cổ đông
Theo Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp 2005 thì các cổ đông phổ thông có nghĩa vụ thanh toán đủ số cổ phần cam kết mua và chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
Luật Doanh nghiệp 2005 quy định rõ hơn: Thanh toán đủ số cổ phần cam kết mua trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
Như đã nêu trên, Lan, Liên và Loan chỉ là cổ đông trên giấy tờ, thực chất không góp vốn. Chỉ có ông Trường, bà Thu nhận là có góp vốn vào Công ty. Nhưng cả hai người này đều không thực hiện việc góp vốn theo quy định của Luật Doanh nghiệp 1999 (và Luật Doanh nghiệp 2005).
Theo điều 22 Luật Doanh nghiệp 1999:“1. Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, người cam kết góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và công ty hợp danh phải chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho công ty theo quy định sau đây:
a) Đối với tài sản có đăng ký hoặc giá trị quyền sử dụng đất, thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất cho công ty tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc chuyển quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn không phải chịu lệ phí trước bạ;
b) Đối với tài sản không đăng ký quyền sở hữu, việc góp vốn phải được thực hiện bằng việc giao nhận tài sản góp vốn có xác nhận bằng biên bản.
Biên bản giao nhận phải có các nội dung chủ yếu: tên và địa chỉ trụ sở chính của công ty; tên và địa chỉ người góp vốn; loại tài sản và số đơn vị tài sản góp vốn; tổng giá trị các tài sản góp vốn và tỷ lệ của tổng giá trị tài sản đó trong vốn điều lệ của công ty; ngày giao nhận; chữ ký của người góp vốn và người đại diện theo pháp luật của công ty”.
Dễ nhận thấy nhất là trong Hợp đồng hợp tác, bà Thu cam kết góp ngôi nhà 1 Nguyễn Trãi, TP H Ngôi nhà này thuộc sở hữu chung của bà Thu, Liên và Lan. Nên giả sử hai người kia cùng đồng ý (vì họ cũng là cũng là cổ đông sáng lập) thì bà Thu, Liên, Lan phải làm thủ tục chuyển ngôi nhà thành sở hữu của Công ty XT.
Tại phiên tòa, ông Trường và bà Thu nêu ra rất nhiều tài sản (không phải là tài sản phải đăng ký sở hữu) đã góp vào Công ty nhưng việc đưa tài sản là phần góp vốn của không được lập biên bản nhập kho quỹ theo quy trình của hệ thống kế toán của Công ty cũng không có sự xác nhận của các bên với nhau; mặt khác trong bản kiểm kê ngày 12/7/2006 cũng không xác định tất cả các tài sản đã kiểm kê là của Công ty CP XT.
Vấn đề thứ 4: Việc tạm dừng kinh doanh Công ty Cổ phần XT đã hợp pháp chưa.
Ngày 12/7/2006 các cổ đông trong Công ty đã thống nhất tạm ngưng hoạt động kinh doanh vì ông Trường vẫn chưa có bằng cấp theo yêu cầu, tuy nhiên, ông Trường và bà Loan không đồng ý ký vào biên bản họp này.
Tại thời điểm các cổ đông của Công ty cổ phần XT đưa vấn đề tạm ngừng hoạt động ra bàn bạc thì Luật Doanh nghiệp 2005 đã có hiệu lực.
Do đến ngày 12/07/2006, các cổ đông vẫn chưa thực hiện góp vốn theo quy định nên không có căn cứ để xác định số phiếu biểu quyết của từng cổ đông trong cuộc họp nêu trên (với giả thiết là cuộc họp này là cuộc họp đại hội đồng cổ đông được triệu tập đúng trình tự thủ tục).
Tỷ lệ biểu quyết để thông qua các vấn đề thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ theo Luật Doanh nghiệp 2005 phải đạt tối thiểu 65% và tối thiểu 75% đối với một số vấn đề quan trọng.
Do không xác định được số phiếu của từng cổ đông nên chỉ trường hợp tất cả các cổ đông đồng ý thì quyết định tạm ngưng mới được thông qua.
Công ty khi tạm ngưng kinh doanh mà không thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh là vi phạm khoản 1 Điều 156 của Luật Doanh nghiệp 2005 “ Doanh nghiệp có quyền tạm ngừng kinh doanh nhưng phải thông báo bằng văn bản về thời điểm và thời hạn tạm ngừng hoặc tiếp tục kinh doanh cho cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế chậm nhất mười lăm ngày trước ngày tạm ngừng hoặc tiếp tục kinh doanh”. Ngoài thông báo, doanh nghiệp còn phải nộp kèm biên bản họp và quyết định của ĐHĐCĐ về việc tạm ngừng kinh doanh.
Vấn đề thứ 5: Việc người không phải đại diện theo pháp luật của công ty chiếm giữ con dấu có hợp pháp không?
Theo quy định tại điều 36 Luật Doanh nghiệp 2005, Con dấu là tài sản của doanh nghiệp và phải được lưu giữ tại trụ sở chính của doanh nghiệp. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm quản lý sử dụng con dấu theo quy định của pháp luật
Như vậy, bà Thu tự ý giữ con dấu công ty trong khi ông Trường là người đại diện theo pháp luật là vi phạm điều 36 Luật Doanh nghiệp 2005.
Việc chiếm giữ con dấu của một bên trong tranh chấp trong các doanh nghiệp Việt Nam là khá phổ biến, và đây được xem như một “con bài“ quan trọng trong các vụ tranh chấp này.
4. Nguyên nhân và bài học
Đây là một tranh chấp về hợp đồng góp vốn thành lập công ty và cũng là một tranh chấp giữa các cổ đông của công ty cổ phần.
Trong tranh chấp này, động cơ của những người sáng lập công ty có sự không minh bạch, khai báo hồ sơ đăng ký kinh doanh không trung thực.
Việc góp vốn không được thực hiện, mặc dù trước khi thành lập công ty, những sáng lập viên này còn ký hẳn một hợp đồng hợp tác góp vốn thành lập công ty.
Ngoài ra, trong quá trình hoạt động, Công ty XT còn có một số sai phạm khi kinh doanh ngành nghề chưa đăng ký, chưa đủ điều kinh doanh, tạm ngừng kinh doanh không thông báo cho cơ quan đăng ký kinh doanh.
Những sự dễ dãi, nể nang khi thành lập doanh nghiệp, cộng với việc không tuân thủ Luật Doanh nghiêp 1999 và 2005 là nguyên nhân sâu xa của tranh chấp này. Vì vậy, để tránh pháp sinh các tranh chấp, các sáng lập viên và các doanh nghiệp phải hết sức cân nhắc về việc thành lập doanh nghiệp và nghiêm túc trong việc tuân thủ các quy định của Luật Doanh nghiệp, Điều lệ Công ty.
Tranh chấp 04: Về trình tự thủ tục triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ bất thường trong công ty cổ phần
1. Tóm tắt nội dung tranh chấp
Công ty Cổ phần BĐG (sau đây gọi tăt là Công ty BĐG) được thành lập từ tháng 10/2004 trên cơ sở cổ phần hoá (CPH) một bộ phận của Công ty nhà nước, vốn điều lệ 8,92 tỷ đồng, chia thành 89.200 cổ phần mệnh giá 100.000 đồng, 67 cổ đông sáng lập.
Ngày 23/10/2004, đại hội đồng cổ đông thành lập Công ty đã thông qua điều lệ (có nội dung theo Luật Doanh nghiệp 1999), bầu ra HĐQT 5 người gồm ông Phúc, ông Quang và các bà Phương, Hiền, Oanh. Ông Phúc đã được bầu làm Chủ tịch HĐQT. Các thành viên HĐQT đều là cổ đông sáng lập của Công ty.
Ngày 25/10/2004, Công ty được cấp GCNĐKKD lần đầu.
Ngày 2/11/2004, ông Phúc – chủ tịch HĐQT đã đứng ra bán 17.602 cổ phần (giá trị mệnh giá là hơn 1,76 tỷ đồng), bán cho người ngoài doanh nghiệp là ông Cường với giá hơn 3,363 tỷ đồng. Trong hợp đồng chuyển nhượng ông Phúc còn ghi rõ chức danh Chủ tịch HĐQT kiêm Phó giám đốc công ty. Qua chuyển nhượng, ông Phúc thu được số tiền hơn 1,6 tỷ đồng chênh lệch.
Một thành viên khác trong HĐQT Công ty cũng có hành vi chuyển nhượng cổ phần là bà Hiền, kế toán trưởng. Ngay từ trước đại hội đồng cổ đông thành lập Công ty bà Hiền đã chuyển nhượng 1.000 cổ phần trong tổng số 1.353 cổ phần của mình cho người khác. Như vậy bà Hiền đã không đủ điều kiện nhưng vẫn tham gia vào HĐQT. Trước khi tiến hành đại hội cổ đông thành lập công ty, bà Hiền chỉ còn nắm giữ 353 cổ phần. Trong khi đó điều lệ công ty quy định thành viên HĐQT phải nắm giữ ít nhất số cổ phần ít nhất là 1% vốn điều lệ. Không đáp ứng đủ tỷ lệ trên nhưng bà Hiền vẫn “lọt” vào HĐQT. Sau đó bà Hiền “khắc phục” bằng cách mua lại 600 cổ phần của người khác để cho đủ số cổ phần mà uỷ viên HĐQT phải nắm giữ.
Việc mua bán cổ phần này bị các cổ đông phát giác và đề nghị tổ chức đại hội cổ đông thường niên. Tuy nhiên, ông Phúc, Chủ tịch, và một số thành viên HĐQT Công ty BĐG đã không tiến hành đại hội theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ công ty. Theo điều 16, khoản 2 điều lệ Công ty, đại hội cổ đông thường niên do chủ tịch HĐQT triệu tập vào quý I hàng năm, nhưng đến hết quý II/2005, ông Phúc vẫn không triệu tập đại hội cổ đông thường niên để thông qua báo cáo tài chính năm 2004 cũng như dự kiến phân chia lợi nhuận, cổ tức và đề ra phương hướng nhiệm vụ phát triển, kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2005. Từ đây, một số cổ đông hoài nghi về tình hình tài chính công ty.
Ngày 4/5/2005, nhóm cổ đông nắm giữ 52,41% cổ phần phổ thông trong liên tục sáu tháng (sau đây gọi tắt là Nhóm cổ đông 52,41%) đã gửi đơn đề nghị HĐQT triệu tập Đại hội cổ đông bất thường. Ngày 13/05/2005, HĐQT do bà – Phó chủ tịch HĐQT đại diện đã có thông báo không triệu tập họp ĐHĐCĐ.
Ngày 19/5/2005, nhóm cổ đông 52,41% tiếp tục gửi văn bản đề nghị Ban kiểm soát triệu tập đại hội cổ đông bất thường. Ngày 12/06/2005, BKS đã có văn bản trả lời không tổ chức đại hội.
Ngày 17/06/2005, nhóm cổ đông nắm giữ 52,41% cổ phần đã thay HĐQT, Ban kiểm soát đứng ra triệu tập đại hội cổ đông bất thường vào ngày 2/07/2005. Thông báo tổ chức đại hội cổ đông bất thường và tài liệu đã gửi tới toàn bộ 67 cổ đông của công ty theo đúng trình tự, thủ tục và thời hạn quy định tại Điều lệ Công ty và Luật Doanh nghiệp 1999.
Tại đại hội, các cổ đông tham dự đã tiến hành bỏ phiếu bãi miễn 3 thành viên HĐQT (gồm ông Phúc cùng các uỷ viên Phương (Giám đốc Công ty), bà Hiền) và bãi miễn hai thành viên Ban Kiểm soát. Đồng thời, tiến hành bầu bổ sung 3 thành viên HĐQT cùng 2 thành viên Ban kiểm soát. Các quyết định, nghị quyết của Đại hội dồng cổ đông bất thường ngày 2/7/2008 như bãi miễn thành viên Hội quản trị bầu bổ sung thành viên HĐQT, bãi miễn Trưởng ban kiểm soát, bầu Trưởng ban kiểm soát ... đều đạt tỷ lệ 100% cổ phần tham dự Đại hội đồng cổ đông biểu quyết thông qua.
Những người giữ quyền lãnh đạo (cũ) Công ty BĐG cho rằng cuộc họp ngày 2/07/2005 là bất hợp pháp với lý do HĐQT là cơ quan quản lý cao nhất của công ty cổ phần giữa hai kỳ đại hội. HĐQT và Ban giám đốc Công ty nghiêm cấm mọi lao động là cổ đông tham gia đại hội bất thường này.
Cuối cùng, căn cứ Nghị quyết ĐHĐCĐ bất thường, HĐQT, Ban giám đốc và BKS đã yêu cầu Chủ tịch HĐQT cũ và giám đốc cũ bàn giao quyền quản trị công ty cho Chủ tịch HĐQT mới và Giám đốc mới, nhưng yêu cầu không được thực hiện.
Do đó, ông Quang – Chủ tịch HĐQT (mới) – đồng thời là cổ đông trong nhóm cổ đông 53.04% (nhóm cổ đông đã tham dự cuộc họp ngày 2/07/2005), đã kiện ra toà án yêu cầu:
- Công nhận kết quả Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 2/07/2005 là hợp pháp.
- Buộc các thành viên HĐQT bị bãi miễn, các thành viên Giám đốc điều hành bị bãi miễn, các thành viên Ban kiểm soát bị bãi miễn phải bàn giao quyền, nghĩa vụ quản trị, điều hành, kiểm soát Công ty cho HĐQT, giám đốc, trưởng BKS mới.
Các ông Chủ tịch HĐQT, giám đốc và trưởng BKS (cũ) cho rằng chức Chủ tịch HĐQT mới do ông này tự phong, hoàn toàn trái với Điều lệ Công ty, không được bầu cử công khai, minh bạch. Hơn nữa, cho rằng các nội dung nêu trong đơn kiện đều là sai trái không đúng sự thật. Từ lý do bên bị kiện lại đề nghị :
- Bác bỏ đơn khởi kiện của cổ đông là Chủ tịch HĐQT mới vì đơn mạo danh, ngộ nhận là đại diện nhóm cổ đông sở hữu 53.04% cổ phần, nội dung đơn xuyên tạc sự thật, quy kết vu khống cán bộ quản lý công ty trái luật.
- Đề nghị Tòa án hủy bỏ toàn bộ nội dung cuộc họp ĐHĐCĐ bất thường ngày 2/07/2005 vì đây là một hoạt động bất hợp pháp, không được HĐQT, Ban kiểm soát (cũ) của công ty cho phép và không được các cơ quan quản lý công nhận; vi phạm luật doanh nghiệp và Điều lệ công ty.
- Có biện pháp xử lý hành vi mạo nhận, tố cáo sai sự thật và liên tục gây rối cản trở hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong suốt thời gian qua.
2. Các vấn đề đặt ra trong tranh chấp
· Việc chuyển nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập
· Trình tự, thủ tục triệu tập ĐHĐCĐ
3. Giải quyết tranh chấp
Vấn đề thứ 1: Việc chuyển nhượng cổ phần của hai thành viên HĐQT là Ông Phúc và bà Hiền có hợp pháp hay không?
Về việc chuyển nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập, Điều 58 Luật Doanh nghiệp 1999 quy định
“1. Trong ba năm đầu, kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% số cổ phần phổ thông được quyền chào bán; cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập có thể chuyển nhượng cho người không phải là cổ đông nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông. Cổ đông dự định chuyển nhượng cổ phần không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng các cổ phần đó.
2. Sau thời hạn ba năm quy định tại khoản 1 Điều này, các hạn chế đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập đều bãi bỏ”.
Ông Phúc, bà Hiền đều là cổ đông sáng lập của Công ty nên việc chuyển nhượng cổ phần của họ cho người không phải là cổ đông Công ty trong thời gian 03 năm kể từ khi Công ty được cấp Đăng ký kinh doanh chỉ hợp pháp khi được ĐHĐCĐ chấp thuận.
Mặt khác, Công ty BĐG là bộ phần doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa theo Nghị định 64/2002/NĐ-CP về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần và ông Phúc và Bà Hiền là người lao động được mua cổ phần với giá ưu đãi (gọi tắt là mua ưu đãi). Nếu chuyển nhượng các cổ phần được mua ưu đãi này cũng phải tuân thủ quy định tại điều 27 Nghị định 64/2002/NĐ-CP.
“1. Người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp cổ phần hoá tại thời điểm quyết định cổ phần hoá được Nhà nước bán tối đa 10 cổ phần cho mỗi năm đã làm việc thực tế tại khu vực nhà nước với giá giảm 30% so với mệnh giá ban đầu. Trị giá một cổ phần là 100.000 đồng.
...
Người lao động sở hữu số cổ phần được mua theo giá ưu đãi có quyền để thừa kế và các quyền khác của cổ đông theo quy định của pháp luật và Điều lệ tổ chức, hoạt động của Công ty cổ phần. Cổ phiếu của loại cổ phần này là cổ phiếu ghi tên và chỉ được chuyển nhượng sau 3 năm kể từ khi mua. Trường hợp đặc biệt cần chuyển nhượng số cổ phần này trước thời hạn trên thì phải được Hội đồng quản trị Công ty chấp thuận. Công ty cổ phần ưu tiên mua lại theo giá thị trường tại thời điểm bán”.
Như vậy, đối chiếu với các quy định của Luật Doanh nghiệp 1999 thì việc chuyển nhượng cổ phần của Ông Phúc và Bà Hiền là không hợp pháp.
Vấn đề thứ 2: Trình tự thủ tục triệu tập họp ĐHĐCĐ theo yêu cầu của cổ đông/nhóm cổ đông lớn.
Về thẩm quyền yêu cầu triệu tập họp ĐHĐCĐ, theo quy định tại khoản 2 Điều 53 Luật Doanh nghiệp 1999 thì cổ đông/nhóm cổ đông sở hữu trên 10% số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất sáu tháng hoặc tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty, có quyền yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông;
Về trình tự, và thẩm quyền triệu tập ĐHĐCĐ, Điều 71 Luật Doanh nghiệp 1999 quy định:
“…2. Đại hội đồng cổ đông được triệu tập họp:
a) Theo quyết định của Hội đồng quản trị;
b) Theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều 53 của Luật này hoặc của Ban kiểm soát trong trường hợp Hội đồng quản trị vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của người quản lý quy định tại Điều 86 của Luật này, Hội đồng quản trị ra quyết định vượt quá thẩm quyền được giao, các trường hợp khác quy định tại Điều lệ công ty.
3. Hội đồng quản trị phải triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu quy định tại điểm b khoản 2 Điều này.
Trường hợp Hội đồng quản trị không triệu tập thì Ban kiểm soát phải thay thế Hội đồng quản trị triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông theo quy định của Luật này.
Trường hợp Ban kiểm soát không triệu tập thì cổ đông, nhóm cổ đông có yêu cầu quy định tại điểm b khoản 2 Điều này có quyền thay thế Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông theo quy định của Luật này”.
Như vậy, nhóm cổ đông 52,41% đề nghị HĐQT triệu tập họp ĐHĐCĐ là đúng thẩm quyền. Mặt khác, nhóm cổ đông này cũng đã đề nghị BKS triệu tập họp ĐHĐCĐ theo quy định.
Đến ngày 17/06/2005, việc Nhóm cổ đông 52,41% triệu tập họp ĐHĐCĐ vì đã quá 30 ngày kể từ khi đề nghị HĐQT triệu tập họp (ngày 04/05/2005) nhưng HĐQT không thực hiện, là đúng quy định.
Về lý do yêu cầu triệu tập họp, có căn cứ để cho rằng, Hội đồng quản trị, cá nhân ông Phúc (chủ tịch) và bà Hiền (thành viên) có vi phạm nghĩa vụ của người quản lý.
Với tư cách là Chủ tịch HĐQT kiêm Phó Giám đốc đáng ra ông Phúc phải gương mẫu thực hiên các quy định của pháp luật và Điều lệ công ty, nhưng ông này lại chuyển nhượng cổ phần cho người không phải là cổ đông mà không thông qua ĐHĐCĐ là vi phạm Điều 58 Luật Doanh nghiệp 1999.
Ông Phúc với tư cách là Chủ tịch HĐQT không triệu tập ĐHĐCĐ thường niên năm 2005 là trái với Khoản 1 Điều 71 Luật Doanh nghiệp 1999 “ĐHĐCĐ mỗi năm họp ít nhất một lần” và khoản 2 Điều 16 Điều lệ Công ty “ĐHĐCĐ thường niên do Chủ tịch HĐQT triệu tập vào Quý I hàng năm, được tiến hành khi có đủ số cổ đông tham dự đại diện cho ít nhất 51% số cổ phần được quyền biểu quyết của Công ty”.
Thành viên HĐQT có quyền được cung cấp thông tin theo Điều 83 Luật Doanh nghiệp 1999:
“1. Thành viên Hội đồng quản trị có quyền yêu cầu Giám đốc (Tổng giám đốc), Phó giám đốc (Phó tổng giám đốc), cán bộ quản lý các đơn vị khác trong công ty cung cấp các thông tin, tài liệu về tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh của công ty và của các đơn vị trong công ty.
2. Cán bộ quản lý được yêu cầu phải cung cấp kịp thời, đầy đủ và chính xác các thông tin, tài liệu theo yêu cầu của thành viên Hội đồng quản trị”.
Ông Quang – thành viên HĐQT, ngày 31/05/2005, sau nhiều lần trực tiếp yêu cầu không được, đã có văn bản gửi HĐQT và BKS yêu cầu được cung cấp thông tin về tình hình tài chính và hoạt động của Công ty. Ngày 02/06/2005, ông Phúc có văn bản trả lời không cung cấp thông tin như yêu cầu. Việc làm trên của ông Phúc là vi phạm Điều 83 Luật Doanh nghiệp 1999.
Bà Hiền với tư cách là thành viên HĐQT cũng vi phạm về chuyển nhượng cổ phần tương tự như ông Phúc (đã phân tích ở trên).
Luật Doan nghiệp 1999 và Điều lệ Công ty đều quy định, cuộc họp ĐHĐCĐ là hợp pháp khi có số cổ đông, người đại diện cổ đông đại diện cho ít nhất 51% tổng số phiêu biểu quyết tham dự. Cuộc họp ĐHĐCĐ ngày 2/07/2005 có số cổ đông, người đại diện cho cổ đông đại diện cho 53,04% tổng số cổ phần phổ thông tham dự. Như vậy, cuộc họp này đủ điều kiện để tiến hành theo quy định của pháp luật.
Các quyết định tại cuộc họp ĐHĐCĐ ngày 2/07/2005 về việc bãi miễn thành viên HĐQT, bầu bổ sung thành viên HĐQT, bãi miễn và bầu bổ sung thành viên BKS đã được thông qua với 100% cổ phần của những cổ đông dự họp. Như vậy là thỏa mãn quy định tại điểm a khoản 2 Điều 77 Luật Doanh nghiệp “Được số cổ đông đại diện ít nhất 51% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp thuận. Tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định”.
Như vậy, cuộc họp ĐHĐCĐ bất thường và các quyết định được thông qua tại cuộc họp là hoàn toàn đúng pháp luật.
Với những phân tích trên, tòa án sơ thẩm và phúc thẩm đều quyết định công nhận Đại hội đồng cổ đông bất thường do nhóm cổ đông sở hữu 53,04% vốn điều lệ công ty tổ chức là hợp pháp, hợp lệ; Các quyết định, nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông bất thường nói trên cũng hợp pháp, hợp lệ và có hiệu lực kể từ ngày ban hành. Tất cả các thành viên Công ty cổ phần BĐ đều phải có nghĩa vụ chấp.
4. Nguyên nhân và bài học
Nhận thức và ý thức tuân thủ Luật Doanh nghiệp của một số cán bộ quản lý Công ty BĐG còn nhiều hạn chế dẫn đến những sai phạm trong chuyển nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập. Đáng nói hơn, những người vi phạm lại là các thành viên HĐQT của Công ty. Việc HĐQT và Ban giám đốc Công ty nghiêm cấm mọi lao động là cổ đông tham gia đại hội bất thường do nhóm cổ đông 53,04% triệu tập là biểu hiện rõ ràng nhất của sự thiếu hiểu biết và ý thức tuân thủ Điều lệ Công ty và Luật Doanh nghiệp.
Mặt khác, Hội đồng quản trị cũ cũng chưa thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ, trách nhiệm của mình theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ công ty cụ thể là không triệu tập cuộc họp Đại hội đồng cổ đông thường niên, không triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ khi nhận được yêu cầu của nhóm cổ đông nắm giữ trên 10% tổng số cổ phần phổ thông liên tục trong 06 tháng...và nhiều vi phạm nghĩa vụ của người quản lý như đã phân tích ở trên.
Qua đây, cũng có thể thấy thiếu sót của Luật Doanh nghiệp 1999 trong việc quy định về trình tự thủ tục triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ trong trường hợp Nhóm cổ đông nắm giữ trên 10% tổng số cổ phần phổ thông liên tục trong 06 tháng được yêu cầu triệu tập họp ĐHĐCĐ. Cụ thể, Luật Doanh nghiệp 1999 tuy quy định BKS phải triệu tập họp ĐHĐCĐ theo yêu cầu của Nhóm cổ đông nắm giữ trên 10% tổng số cổ phần phổ thông liên tục trong 06 tháng nhưng không quy định thời hạn để BKS phải thực hiện việc này mà chỉ quy định Nhóm cổ đông nắm giữ trên 10% tổng số cổ phần phổ thông liên tục trong 06 tháng có quyền triệu tập họp ĐHĐCĐ nếu trong vòng 30 ngày kể từ ngày đề nghị mà HĐQT không triệu tập họp. Mặt khác, trách nhiệm của HĐQT, BKS và các cá nhân thuộc hai cơ quan này cũng không rõ ràng trong trường hợp hai cơ quan này không triệu tập họp ĐHĐCĐ theo yêu cầu của nhóm cổ đông nắm giữ trên 10% tổng số cổ phần phổ thông liên tục trong 06 tháng.
Tuy nhiên, những thiếu sót trên đã được khắc phục trong Luật Doanh nghiệp 2005 bằng việc quy định HĐQT phải triệu tập họp ĐHĐCĐ trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của cổ đông nắm giữ trên 10% tổng số cổ phần phổ thông liên tục trong 06 tháng, nếu HĐQT không triệu tập họp thì trong 30 ngày tiếp theo BKS phải triệu tập họp. Luật Doanh nghiệp 2005 cũng quy định chủ tịch HĐQT và Trưởng BKS phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại phát sinh đối với công ty nếu không triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ trong các trường hợp nhận được yêu cầu của của cổ đông, nhóm cổ đông như nêu trên.
Một lần nữa ta có thể thấy, bản thân các cổ đông, người quản lý công ty cổ phần cần tìm hiểu đầy đủ và phải có ý thức thủ các quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ Công ty. Có như vậy sẽ tránh được những tranh chấp đáng tiếc gây thiệt hại cho Công ty, cổ đông và người lao động.
Tranh chấp số 05: Về việc chuyển nhượng cổ phần
1. Tóm tắt nội dung tranh chấp
Công ty Cổ phần ĐBG được cấp giấy chứng nhận kinh doanh lần đầu vào tháng 6/2003. Điều lệ Công ty quy định như Luật Doanh nghiệp 1999.
Ngày 15/7/2005, ông Thanh là cổ đông sáng lập, Chủ tịch HĐQT của Công ty cổ phần ĐBG có ký Hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ 8.500 cổ phần của mình trong Công ty cổ phần ĐBG cho ông Sơn với giá chuyển nhượng là 1,5 tỷ đồng và đã nhận đủ số tiền này từ ông Sơn. Trong Hợp đồng cũng có điều khoản ông Thanh phải từ chức chủ tịch HĐQT và thực hiện các thủ tục để ông Sơn được giữ chức Chủ tịch HĐQT của Công ty ĐBG. Ông Sơn nhận một số giấy tờ của Công ty BĐG do ông Thanh giao để làm tin bao gồm một số hóa đơn GTGT do bên bán phát hành cho Công ty ĐBG và 02 chứng nhận bảo hiểm do công ty bảo hiểm cấp cho Công ty ĐBG.
Tuy nhiên, sau đó ông Thanh không thực hiện việc làm thủ tục đăng ký ông Sơn vào Sổ đăng ký cổ đông và làm thủ tục thay đổi Chủ tịch HĐQT của Công ty. Do đó, ông Sơn làm đơn khởi kiện yêu cầu ông Thanh phải trả lại số tiền chuyển nhượng cổ phần đã nhận 1,5 tỷ đồng nói trên
Ông Thanh xác nhận chỉ ký khống vào tờ giấy trắng để ông Sơn sử dụng vào việc liên hệ mua hàng hóa tại Hà Nội, thực tế không có ký hợp đồng chuyển nhượng cổ phần.
Tóa án Thành phố H đã thụ lý vụ việc.
2. Các vấn đề đặt ra trong tranh chấp
· Chuyển nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập
3. Giải quyết tranh chấp
Căn cứ vào bản Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ngày 15/7/2005 đã được người đại diện hợp pháp của ông Thanh xác nhận chữ ký tại phiên tòa, có đủ cơ sở để xác định giữa ông Thanh và ông Sơn có thỏa thuận việc chuyển nhượng 8.500 cổ phần của ông Thanh trong Công ty cổ phần ĐBG cho ông Sơn với giá chuyển nhượng là 1,5 tỷ đồng. Nhưng có vấn đề cần xem xét là ông Sơn không đưa ra được bằng chứng chứng tỏ bên chuyển nhượng là ông Thanh đã nhận đủ số tiền chuyển nhượng nói trên.
Tuy nhiên, việc chuyển nhượng cổ phần nói trên giữa ông Thanh và ông Sơn không được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông Công ty cổ phần BĐG theo quy định tại khoản 1 Điều 58 Luật doanh nghiệp năm 1999 (có hiệu lực tại thời điểm các bên ký hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, Công ty cổ phần ĐBG mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh chưa được 3 năm).
Do đó, căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 131 Bộ luật dân sự năm 1995 (có hiệu lực tại thời điểm các bên ký hợp đồng chuyển nhượng cổ phần), hợp đồng chuyển nhượng cổ phần nói trên giữa các bên là hợp đồng dân sự vô hiệu và các bên có trách nhiệm khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận theo quy định tại khoản 2 Điều 146 Bộ luật dân sự năm 1995
Về ý kiến của ông Thanh cho rằng hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ngày 15/7/2005 mà ông Sơn dùng làm chứng cứ để khởi kiện đã được ông Thanh ký khống để sử dụng vào việc khác (chưa ghi nội dung), thực tế ông Thanh hoàn toàn không có thỏa thuận chuyển nhượng và cũng chưa có nhận số tiền chuyển nhượng cổ phần 1,5 tỷ đồng từ ông Sơn nên không chấp nhận hoàn trả số tiền này cho ông Sơn.Ý kiến này không có căn cứ để được chấp nhận vì tại Biên bản ghi lời khai do Phòng CSĐTTP về TTXH Công an TP. H lập ngày 15/02/2006 cũng như tại phiên tòa, ông Thanh và người đại diện của mình đã xác nhận chữ ký của bên chuyển nhượng trong bản hợp đồng chuyển nhượng cổ phần mà ông Sơn cung cấp cho Tòa án để làm căn cứ khởi kiện đúng là của chữ ký ông Thanh mà không có chứng cứ nào để chứng minh việc ký đó là ký khống.
Từ sự phân tích trên cho thấy yêu cầu của ông Sơn đòi ông Thanh phải hoàn trả số tiền chuyển nhượng cổ phần 1,5 tỷ đồng là có căn cứ và hợp pháp, cần được chấp nhận.
4. Nguyên nhân và bài học
Cổ đông và người quản lý trong Công ty không hiểu rõ và đúng đắn quyền, nghĩa vụ cũng như cách thức thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong công ty. Chính vì lý do đó, mà các cổ đông và nhất là các cổ đông đồng thời là nhà quản lý thường hay lạm dụng quyền mà không thực hiện quyền của mình theo đúng trình tự, thủ tục.
Mặt khác, các nhà đầu tư khi quyết định mua cổ phần của một công ty cũng cần phải tìm hiểu các quy định của pháp luật có liên quan và Điều lệ công ty xem liệu số cổ phần mình định mua là loại cổ phần gì, khi chuyển nhượng cần có các điều kiện gì và thủ tục chuyển nhượng ra sao.
Một câu hỏi nữa được đặt ra trong tranh chấp nêu trên là trong trường hợp, hợp đồng chuyển nhượng cổ phần giữa ông Thanh và ông Sơn được ĐHĐCĐ chấp thuận (chuyển nhượng hợp pháp) thì Công ty BĐG có phải thực hiện thủ tục thay đổi cổ đông sáng lập ghi trong giấy chứng nhận Đăng ký kinh doanh không?
Liên quan đến các nội dung phải đăng ký thay đổi, khoản 1, Điều 19 quy định:
“1. Khi thay đổi tên, địa chỉ trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện (nếu có), mục tiêu và ngành, nghề kinh doanh, vốn điều lệ, vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp, thay đổi người quản lý, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và các vấn đề khác trong nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh, thì doanh nghiệp phải đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh chậm nhất mười lăm ngày trước khi thực hiện việc thay đổi”.
Theo Điều 20 Nghị định 109/2004/NĐ-CP về Đăng ký kinh doanh thì:
“1. Không thực hiện đăng ký thay đổi cổ đông sáng lập công ty cổ phần; việc thay đổi cổ đông công ty cổ phần được đăng ký tại Sổ đăng ký cổ đông của công ty; việc đăng ký do Chủ tịch Hội đồng quản trị thực hiện trên cơ sở chứng từ xác nhận chuyển nhượng cổ phần hoặc mua cổ phần mới phát hành của công ty.
Cổ đông là tổ chức nước ngoài, cá nhân người nước ngoài không thường trú ở Việt Nam chỉ được đăng ký vào Sổ đăng ký cổ đông và trở thành cổ đông của công ty, nếu tổng số cổ phần của các cổ đông nước ngoài chưa vượt quá 30% tổng số cổ phần được quyền phát hành của công ty”.
Như vậy, theo quy định của Luật Doanh nghiệp 1999 và nghị định hướng dẫn, Công ty cổ phần không phải thực hiện thủ tục đăng ký thay đổi cổ đông sáng lập trong trường hợp cổ đông sáng lập chuyển nhượng cổ phần. Đây là một hình thức “ghi công” cho cổ đông sáng lập vì kể cả khi cổ đông sáng lập không còn là cổ đông nữa thì tên của họ vẫn được lưu lại trên Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Việc không quy định thay đổi cổ đông sáng lập có ý nghĩa nhất định, tuy nhiên, trong hoàn cảnh Việt Nam, tâm lý của các nhà đầu tư, cổ đông vẫn muốn có tên trong Giấy chứng nhận Đăng ký kinh doanh (vì đây là văn bản do cơ quan nhà nước cấp) chứ không an tâm nếu chỉ có tên trong Sổ đăng ký cổ đông.
Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định: “Trong thời hạn ba năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho cổ đông sáng lập khác, nhưng chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông. Trong trường hợp này, cổ đông dự định chuyển nhượng cổ phần không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng các cổ phần đó và người nhận chuyển nhượng đương nhiên trở thành cổ đông sáng lập của công ty”.
Nghị định 88/2006/NĐ-CP cũng đã hướng dẫn trình tự thủ tục đăng ký thay đổi cổ đông sáng lập theo quy định nêu trên của Luật Doanh nghiệp 2005.
Quy định trên của Luật Doanh nghiệp không những nêu rõ hơn về thủ tục chuyển nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập trong thời hạn 03 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận Đăng ký kinh doanh, mà còn khắc phục được tâm lý e ngại của người nhận chuyển nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập, đồng thời vẫn đảm bảo sự gắn kết của công ty và cổ đông sáng lập với công ty cũng như yếu tố “ghi công” đối với công ty.
Tranh chấp số 06: Tranh chấp về quyền mua cổ phần phát hành mới và trình tự thủ tục cuộc họp Đại hội đồng cổ đông
1. Tóm tắt tranh chấp
Công ty Cổ phần TX (sau đây gọi tắt là Công ty TX) được thành lập năm 1999 trên cơ sở cổ phần hoá một bộ phận Công ty Nhà nước. Vốn điều lệ của Công ty khi thành lập là 5,5 tỷ đồng.
Ngày 21.4.2004, Đại hội đồng cổ đông thường niên Công ty TX thông qua nghị quyết số 04/HĐQT phát hành thêm 25.000 cổ phần để tăng vốn điều lệ từ 5,5 tỉ lên 8 tỉ đồng.
Thực hiện nghị quyết nêu trên, cuối năm 2004 đầu năm 2005 Giám đốc Công ty đã quyết định bán 25.000 cổ phần nhưng không thông báo đến tất cả các cổ đông. Công ty TNHH công nghệ Y đã mua 10.000 cổ phiếu (tương ứng với 01 tỷ đồng) tăng cổ phần lên 1.560.000.000 đồng, ông Lê Huy mua 4.000 cổ phiếu (tương ứng 400.000.000 đồng) tăng cổ phần lên 1.011.099.120 đồng, bà Bùi Thanh mua 4.000 cổ phiếu (tương ứng 400.000.000 đồng) tăng cổ phần lên 405.375.048đồng.
Kết quả việc bán cổ phiếu và tư cách của Công ty TNHH Công nghệ Y, ông Lê Huy, bà Bùi Thanh trong việc đại diện cho số cổ phần tương ứng với số cổ phiếu đã mua được Đại hội đồng cổ đông của Công ty TX công nhận trong nghị quyết số 11/HĐQT ngày 07.4.2005.
Trong thời gian từ đó, Công ty TNHH Công nghệ Y, ông Lê Huy, bà Bùi Thanh tham gia vào việc biểu quyết, bổ sung vào thêm Hội đồng quản trị Công ty với tư cách là người đại diện cho toàn bộ số vốn của mỗi người (bao gồm vốn góp trước đó và vốn mua cổ phiếu nêu trên).
Ngày 09.11.2006, Công ty TX đã tiến hành Đại hội đồng cổ đông bất thường và ra nghị quyết số 186/HĐQT có nội dung huỷ bỏ kết quả bán 25.000 cổ phần năm 2004 - 2005 (trong đó có số cổ phiếu mà Công ty TNHH Công nghệ Y, ông Lê Huy, bà Bùi Thanh đã mua).
Công ty TNHH Công nghệ Y, ông Lê Huy, bà Bùi Thanh cho rằng, việc tiến hành Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 09.11.2006 không tuân thủ đúng Điều lệ Công ty và Luật Doanh nghiệp năm 2005, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của mình. Chính vì vậy, họ đưa vụ viêc ra tòa án, đề nghị Toà án giải quyết các vấn đề sau:
1. Huỷ bỏ nghị quyết số 186/HĐQT ngày 09.11.2006 của Đại hội đồng cổ đông bất thường Công ty TX.
2. Công nhận kết quả của việc bán 23.000 cổ phiếu (trị giá 2.300.000.000đồng) của Công ty TX
Sau đó, Công ty TNHH Công nghệ Y, ông Lê Huy, bà Bùi Thanh chỉ đề nghị Toà án huỷ bỏ nghị quyết số 186/HĐQT ngày 09.11.2006 của Công ty TX.
Quan điểm của phía Công ty TX cho rằng: Tại Đại hội đồng cổ đông Công ty TX ngày 21.4.2004 đã thông qua nghị quyết tăng vốn điều lệ từ 5,5 tỷ đồng lên 08 tỷ đồng nhưng không quyết định loại cổ phần và số lượng cổ phần mỗi loại được quyền chào bán. Việc Giám đốc Công ty tự ý quyết định việc bán 25.000 cổ phần phổ thông là không tuân thủ đúng quy định tại Điều lệ Công ty cũng như Luật Doanh nghiệp. Chính vì vậy, việc tiến hành Đại hội ngày 09.11.2006 để huỷ bỏ việc phát hành cổ phiếu là nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các cổ đông.
2. Các vấn đề đặt ra trong tranh chấp
· Việc Giám đốc công ty tự quyết định bán số cổ phần do công ty phát hành thêm có đúng thẩm quyền?
· Thể thức tiến hành họp và biểu quyết tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông công ty cổ phần vận tải hành khác TX ngày 09.11.2006?
3. Giải quyết tranh chấp
Vấn đề thứ 1: Việc Giám đốc công ty tự quyết định bán số cổ phần do công ty phát hành thêm có hợp pháp không
Theo điểm c, khoản 2 Luật Doanh nghiệp 1999 (có hiệu lực tại thời điểm Công ty TNHH Công nghệ Y, ông Lê Huy, bà Bùi Thanh mua cổ phần mới phát hành của công ty TX) thì Hội đồng quản trị “quyết định việc chào bán cổ phần mới trong phạm vi số cổ phần được quyền chào bán”. Mặt khác, khoản 1 điều 61 Luật Doanh nghiệp 1999 quy định “Hội đồng quản trị quyết định giá bán cổ phần”.
Mặt khác, việc Giám đốc quyết định bán cổ phần như trên là vi phạm quyền của cổ đông “Được ưu tiên mua cổ phần mới chào bán tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông của từng cổ đông trong công ty” quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 53 Luật Doanh nghiệp 1999.
Theo các quy định trên, có thể khẳng định việc Giám đốc Công ty tự ý quyết định bán và quyết định giá bán cổ phần cho Công ty TNHH Công nghệ Y, ông Lê Huy, bà Bùi Thanh khi chưa có quyết định của Hội đồng quản trị là trái thẩm quyền.
Từ đây suy ra, hợp đồng mua cổ phiếu Công ty TX của Công ty TNHH Công nghệ Y, ông Lê Huy, bà Bùi Thanh bị vô hiệu.
Tuy nhiên, kết quả của việc mua cổ phần này và tư cách cổ đông sở hữu số cổ phần đã mua của Công ty TNHH Công nghệ Y, ông Lê Huy, bà Bùi Thanh đã được Đại hội đồng cổ đông của Công ty TX công nhận trong nghị quyết số 11/HĐQT ngày 07.4.2005. Công ty TNHH Công nghệ Y, ông Lê Huy, bà Bùi Thanh đã được tham gia và biểu quyết tại cuộc họp ngày 07/04/2005 thì khi đó họ phải có tên trong danh sách cổ đông có quyền dự họp do HĐQT lập (tức là đã được đăng ký vào Sổ cổ đông), họ phải có được giấy mới họp. Như vậy, HĐQT cũng đã công nhận hợp đồng mua cổ phiếu Công ty TX của Công ty TNHH Công nghệ Y, ông Lê Huy, bà Bùi Thanh.
Vấn đề thứ 2: Trình tự thủ tục tiến hành cuộc họp Đại hội đồng cổ đông ngày 09/11/2006:
Về thể thức tiến hành họp và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông ngày 09.11.2006, do Điều lệ Công ty TX không quy định vì vậy Hội đồng xét xử sẽ căn cứ vào quy định tại Điều 103 Luật Doanh nghiệp năm 2005 để xem xét.
- Theo biên bản Đại hội thì ông Nguyễn Văn - Chủ tịch Hội đồng quản trị - chủ trì cuộc họp đã giới thiệu 02 Thư ký ghi biên bản Đại hội là ông Khúc và bà Liên. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 103 Luật Doanh nghiệp thì Chủ toạ cử 01 người làm Thư ký lập biên bản họp Đại hội đồng cổ đông. Việc cử 02 Thư ký ghi biên bản tại cuộc họp ngày 09.11.2006 là không phù hợp.
Hơn nữa, tại Điều 14.8 Điều lệ Công ty quy định "… Những người tham gia họp cử một Thư ký ghi biên bản họp…". Do đó, Chủ tịch Hội đồng quản trị giới thiệu 02 người ghi biên bản cuộc họp không được Đại hội thông qua là không tuân thủ Điều lệ Công ty và Luật Doanh nghiệp.
- Về bản kiểm phiếu: theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 103 thì Ban Kiểm phiếu do Đại hội bầu theo đề nghị của Chủ toạ. Căn cứ biên bản Đại hội cũng như nghị quyết số 186/HĐQT cho thấy Ban Kiểm phiếu do Chủ toạ đề nghị gồm Kiểm soát viên trưởng, Ban Thư ký và 01 nhân viên phòng Tổ chức là không đúng với quy định. Hơn nữa, theo kết quả kiểm phiếu xác định 07 cổ đông từ bỏ quyền biểu quyết. Tuy nhiên, tại phiên toà hôm nay các nguyên đơn đã xuất trình cho Toà án bản gốc 11 phiếu biểu quyết chưa bỏ vào hòm phiếu. Điều này khẳng định 11 cổ đông không tiến hành biểu quyết tại Đại hội chứ không chỉ có 07 cổ đông như biên bản kiểm phiếu và nghị quyết số 186/HĐQT xác nhận. Các nguyên đơn cho rằng kết quả kiểm phiếu tại Đại hội là thiếu chính xác là hoàn toàn có cơ sở.
- Về trình tự biểu quyết tại cuộc họp phải được tiến hành theo quy định tại khoản 5 Điều 103, đó là "Đại hội đồng cổ đông thảo luận và biểu quyết theo từng vấn đề trong nội dung chương trình. Việc biểu quyết được tiến hành bằng cách thu thẻ biểu quyết tán thành nghị quyết, sau đó thu thẻ biểu quyết không tán thành, cuối cùng kiểm phiếu tập hợp số phiếu biểu quyết tán thành, không tán thành, không có ý kiến…". Căn cứ theo trình tự trên thì Đại hội đồng cổ đông ngày 09.11.2006 của Công ty TX không phát thẻ biểu quyết cho các cổ đông mà việc bỏ phiếu được thực hiện theo thể thức gạch bỏ chữ tán thành hoặc không tán thành quyết định huỷ bỏ kết quả bán cổ phần năm 2005 trong phiếu biểu quyết. Hội đồng xét xử thấy việc biểu quyết này của Công ty TX là không thực hiện đúng cách thức đã được Luật Doanh nghiệp quy định.
Từ những phân tích nên trên có thể thấy trình tự tiến hành họp và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông ngày 09.11.2006 của Công ty TX không thực hiện đúng theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 và Điều lệ Công ty. Vì vậy, cần huỷ bỏ kết quả Đại hội ngày 09.11.2006 của Công ty TX
4. Nguyên nhân và bài học
Tòa án đã quyết định hủy cuộc họp ĐHĐCĐ ngày 09/11/2006, nhưng quyết định này chưa trả lời được các câu hỏi: Với nghị quyết 11/HĐQT ngày 07.4.2005 của ĐHĐCĐ thì số cổ phần mua thêm của Công ty TNHH Công nghệ Y, ông Lê Huy, bà Bùi Thanh trong đợt phát hành này đã được hợp thức hóa, liệu một cuộc họp ĐHĐCĐ khác (được triệu tập tổ chức theo đúng quy định của pháp luật) của Công ty TX quyết định không công nhận kết quả mua bán cổ phần và tư cách cổ đông của Công ty TNHH Công nghệ Y, ông Lê Huy, bà Bùi Thanh với số cổ phần mua thêm thì các hợp đồng mua cổ phần của các cổ đông nêu trên có trở thành vô hiệu không?
Qua đây, chúng ta thấy nguyên nhân của tranh chấp chính là sự lạm quyền của Giám đốc, sự thiếu giám sát, tắc trách, tiền hậu bất nhất của HĐQT. Các thành viên HĐQT chưa thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình một cách cẩn trọng vì lợi ích của Công ty và cổ đông.
Theo điểm a Khoản 2 Điều 70 Luật Doanh nghiệp 1999 và điểm b, Khoản 2 Điều 96 Luật Doanh nghiệp 2005 thì ĐHĐCĐ chỉ “quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại được quyền chào bán” còn phương án chào bán, giá bán cổ phần do HĐQT quyết định. Vậy nếu HĐQT đưa ra phương án chào bán cổ phần bất lợi cho cổ đông hiện hữu (ví dụ như trong tranh chấp này là tước quyền “ưu tiên mua cổ phần mới được chào bán tương ứng với số cổ phần phổ thông của cổ đông”) thì liệu phương án của HĐQT có hợp pháp hay lại phải có một cuộc họp ĐHĐCĐ để thông qua phương án chào bán này? Như vậy, để tránh xung đột, các công ty cổ phần nên đưa vào Điều lệ công ty quy định “ đối tượng được mua cổ phần và số lượng cổ phần chào bán cho từng đối tượng này trong Phương án chào bán cổ phần mới phải được ĐHĐCĐ thông qua”.
Hộp2[2]
Tranh chấp về quyền mua cổ phần tại Thái Bình
Phiên toà đầu tiên tại Thái Bình xử vụ tranh chấp cổ phần với nguyên đơn là các cổ đông bị mất quyền mua cổ phần phát hành mới, trong khi lãnh đạo Công ty gốm sứ lý giải việc “tước” quyền vì số đông người lao động.
Công ty CP gốm sứ Thái Bình tiền thân là Xí nghiệp sứ Thái Bình (cổ phần hoá năm 2005) với vốn điều lệ là 2,5 tỷ đồng, chia thành 250.000 cổ phần cho 272 cổ đông. Mặc dù hoạt động chưa được 5 năm nhưng nội bộ công ty đã nhiều lần xảy ra mâu thuẫn.
Tháng 4/2008, Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) công ty nhất trí thông qua kế hoạch tăng vốn điều lệ từ 2,5 tỷ lên 5 tỷ đồng (chia thành 500.000 cổ phần) theo phương thức phát hành cổ phiếu phổ thông để huy động vốn.
Tuy nhiên, danh sách cổ đông được lập đưa quá nửa số người lao động chưa từng có cổ phần tại công ty vào trong khi lại cố ý bỏ qua nhiều người đang nắm giữ tỷ lệ gần nửa số cổ phần vào thời điểm đó.
Ngày 15/2/2009, ông Nguyễn Viết Xuân - Chủ tịch HĐQT Công ty ký Nghị quyết chào bán 12.280 đồng/cổ phần. Theo đó, thành viên HĐQT mỗi người được mua 10.000 cổ phần.
Riêng Chủ tịch HĐQT và GĐ được ưu ái thêm 10.000 cổ phần, phó GĐ tăng thêm 5.000 cổ phần, Trưởng, phó các phòng, quản đốc… mỗi người được tăng 10.000 cổ phần, kế toán trưởng được thêm 5.000 cổ phần, nhân viên quản lý là 2.000 cổ phần/người, người lao động làm việc thường xuyên mỗi người được 300 cổ phần…
Xác minh trước toà, chỉ 40% số người được mua cổ phần theo sự phân chia này là cổ đông của công ty. Còn các cổ đông không phải là lao động của công ty hoàn toàn không được đả động trong khi nếu được mua đúng quyền, số này sẽ nắm quyền kiểm soát công ty.
Hai cổ đông phổ thông là ông Ngô Duy Thân và Lương Xuân Định đại diện cho 14 người khác đệ đơn kiện yêu cầu được trả lại quyền mua đúng, mua đủ cổ phần mới phát hành theo tỷ lệ vốn họ đang sở hữu. Nguyên đơn cũng đề nghị toà huỷ Nghị quyết “chia chác” quyền mua cổ phần mới.
“Chọi” lại yêu cầu của nguyên đơn, bảo vệ quan điểm “bài” cổ đông bên ngoài, Chủ tịch HĐQT Nguyễn Viết Xuân biện minh, việc phát hành cổ phần mới lần này ưu tiên cho người quản lý và người lao động với mục đích là để gắn thêm trách nhiệm, tâm huyết của người lao động với Công ty.
Cuộc tranh luận chứng lý chỉ được kết lại bằng phán quyết của HĐXX. Bản án tuyên ngày 15/5/2009, TAND tỉnh Thái Bình nhận định, việc tăng vốn điều lệ được ĐHĐCĐ thông qua bằng phương pháp phát hành cổ phần phổ thông thì buộc công ty phải thực hiện theo nghị quyết này.
Việc công ty phát hành cổ phần kiểu “bài” cổ đông không phải người lao động trong công ty là trái với nghị quyết của ĐHĐCĐ năm 2008, trái điều lệ của Công ty CP gốm sứ Thái Bình.
Công ty đã không thực hiện theo đúng trình tự và thủ tục phát hành cổ phần phổ thông, tước mất quyền ưu tiên được mua cổ phần chào bán theo đúng tỷ lệ sở hữu cổ phần phổ thông của các cổ đông trong công ty quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 79 luật Doanh nghiệp 2005.
Toà đã chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, tuyên buộc Công ty CP gốm sứ Thái Bình trả lại quyền được mua cổ phần mới chào bán theo tỷ lệ cổ phần đang sở hữu của cổ đông phổ thông cho ông Ngô Duy Thuân, Lương Xuân Định và 14 người có quyền nghĩa vụ liên quan.
Về yêu cầu huỷ Nghị quyết “phân chia” quyền mua cổ phần cho người quản lý và người lao động của ban lãnh đạo công ty, toà án tỉnh Thái Bình cho rằng, thực tế, việc đưa danh sách cổ đông vào biểu quyết tại ĐHĐCĐ năm 2009 dựa trên danh sách bán cổ phần sai đã lập.
Danh sách này không hợp lệ là vô hiệu, toà đã tuyên huỷ và giao Công ty phải tổ chức lại việc phát hành cổ phần tăng vốn điều lệ theo trình tự phát hành cổ phần phổ thông và ĐHĐCĐ thường niên 2009.
Tranh chấp số 07: Tranh chấp về trình tự thủ tục thông qua quyết định cuộc họp ĐHĐCĐ và quyền quản lý công ty cổ phần
1. Tóm tắt nội dung tranh chấp
Công ty cổ phần SX-DV-TM là doanh nghiệp cổ phần hoá từ doanh nghiệp Nhà nước, được cấp GCN ĐKKD ngày 19- 11- 2001.
Trong quá trình hoạt động, do bất đồng quan điểm nên ngày 15- 5- 2006 Công ty cổ phần SX-DV-TM đã tổ chức Đại hội đồng cổ đông bất thường với 4 nội dung chính trong đó có nội dung bãi miễn Hội đồng Quản trị và Ban Kiểm soát (nhiệm kỳ I); đồng thời bầu Hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát mới (nhiệm kỳ II).
Đại hội bất thường do ông Bùi - Trưởng Ban kiểm soát làm chủ toạ (do Hội đồng quản trị không triệu tập) với tổng số cổ đông có mặt là 48 đại biểu đại diện cho 157.938 cổ phần, chiếm tỷ lệ 99,81%. Đại hội đồng cổ đông bất thường thông qua việc bãi nhiệm Hội đồng quản trị (tỷ lệ 98,70%) và bãi nhiệm Ban kiểm soát (tỷ lệ 98,95%). Sau đó, cuộc bỏ phiếu bầu Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát mới được tiến hành theo đúng quy chế; kết quả tổng số phiếu phát ra và thu về đều hợp thức.
Đứng trước nguy cơ không có tên trong thành viên Hội đồng Quản trị nhiệm kỳ mới; ông chủ toạ Đại hội đã tuyên bố dừng cuộc họp sau 7 ngày nhưng do Đại hội đồng cổ đông không chấp nhận nên ông chủ tọa và một số cổ đông đã bỏ ra về không tuyên bố danh sách trúng cử và cũng không lập biên bản kết thúc Đại hội.
Các cổ đông còn lại gồm 16 đại biểu, đại diện cho 51,303% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết đã tiếp tục Đại hội và bầu Chủ toạ thay thế là ông Nguyễn và bổ sung Ban thư ký (tỷ lệ biểu quyết 100%) để công bố danh sách trúng cử và lập biên bản bế mạc Đại hội.
Tuy nhiên, Hội đồng quản trị nhiệm kỳ cũ (đã bị bãi nhiệm) không chịu bàn giao tài liệu, sổ sách và con dấu của Công ty cho Hội đồng quản trị mới.
Ngày 18- 5- 2006 Công ty cổ phần SX-DV-TM do ông Văn đại diện đã khởi kiện yêu cầu Toà án nhân dân thành phố H giải quyết vụ tranh chấp liên quan đến việc bàn giao sổ sách, tài liệu và con dấu….
Ngày 23- 5- 2006 Ông Trần cũng khởi kiện yêu cầu huỷ bỏ kết quả của Đại hội đồng cổ đông bất thường.
2. Vấn đề tranh chấp cần giải quyết:
· Tính hợp pháp của Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông về kết quả bãi miễn Hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát cũ và bầu Hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát mới.
3. Giải quyết tranh chấp:
Cơ sở giải quyết tranh chấp: Tranh chấp xảy ra tại thời điểm Luật Doanh nghiệp 1999 có hiệu lực, nên căn cứ để giải quyết là Luật Doanh nghiệp 1999 và Điều lệ công ty. Điều lệ công ty hoàn toàn sao chép lại nội dung của Luật Doanh nghiệp 1999.
Luật Doanh nghiệp 1999 và Điều lệ công ty không quy định về thể thức, trình tự tiến hành họp và thông qua quyết định Đại hội đồng cổ đông mà để Công ty quy định trong Điều lệ. Thực tế, các công ty cổ phần thường không chú ý đến quy định này nên chỉ quy định như Luật Doanh nghiệp mà không chi tiết thêm, vì vậy không có căn cứ để xác định thời điểm nào để xác định cuộc họp ĐHĐCĐ là đủ điều kiện để tiến hành một cách hợp pháp? việc chủ tọa tuyên bố dừng cuộc họp như theo trình tự nào thì hợp pháp? Việc một số cổ đông bỏ về, các cổ đông ở lại (chiếm 51.303% vốn điều lệ) bầu chủ tọa mới và tiếp tục cuộc họp có hợp pháp hay không, biên bản và nghị quyết cuộc họp trong trường hợp này có hợp pháp hay không?
Trong tranh chấp này, cuộc họp đã được triệu triệu tập theo đúng trình tự thủ tục, đáp ứng điều kiện có 51% số cổ phần có quyền biểu quyết tham dự. Như vậy, tại thời điểm khai mạc cuộc họp, cuộc họp ĐHĐCĐ bất thường ngày 15/05/2006 là hợp pháp. việc biểu quyết bãi miễn Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát cũ và bầu Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát mới của Đại hội đồng cổ đông diễn ra trước khi Chủ tọa tuyên bố ngừng cuộc họp và một số cổ đông bỏ về là hợp pháp vì
- Đối với việc biểu quyết bãi miễn Hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát cũ: Việc biểu quyết bãi miễn Hội đồng quản trị cũ đạt tỷ lệ 98,70%, bãi miễn Ban kiểm soát cũ đạt tỷ lệ 98,95%, vượt xa so với tỷ lệ tối thiểu 51% theo quy định của Điều lệ công ty và Luật Doanh nghiệp 1999.
- Đối với việc biểu quyết bãi bầu Hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát mới: Trên thực tế việc bầu Hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát mới đã thực hiện xong, người nào trúng cử, người nào thất cử đã thể hiện rõ tại Biên bản kiểm phiếu. Do đó, việc các cổ đông tự ý bỏ về không làm ảnh hưởng đến kết quả kiểm phiếu.
Nhóm cổ đông ở lại chiếm 51,303% tổng số cổ phần có quyền biểu, nhóm này lại biểu quyết thông qua các vấn đề với tỷ lệ 100%, như vậy là đủ điều kiện tiến hành họp theo quy định tại Khoản 1 Điều 76 Luật Doanh nghiệp 1999 và đủ điều kiện để quyết định của Đại hội đồng cổ đông có hiệu lực theo quy định Điểm a Khoản 2 Điều 77 Luật Doanh nghiệp 1999.
4. Nguyên nhân và bài học
Tranh chấp trên xảy ra do sự thiếu vắng các quy định chi tiết về thể thức tiến hành họp và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông tại Luật Doanh nghiệp 1999. Luật Doanh nghiệp 1999 trao quyền thỏa thuận cho các cổ đông về trình tự, thủ tục tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông, tuy nhiên đa số các công ty không ý thức được quyền này của mình nên thường là sao chép các quy định của Luật Doanh nghiệp để ban hành thành Điều lệ công ty mà không quy định chi tiết các quy định mà Luật Doanh nghiệp 1999 trao quyền tự thỏa thuận.
Về thể thức tiến hành họp và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông, Điều 103 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định:”Trong trường hợp Điều lệ công ty không có quy định khác thì thể thức tiến hành họp và biểu quyết tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được tiến hành theo quy định sau đây:
1. Trước ngày khai mạc cuộc họp, phải tiến hành đăng ký việc dự họp Đại hội đồng cổ đông cho đến khi bảo đảm việc đăng ký đầy đủ các cổ đông có quyền dự họp. Người đăng ký dự họp sẽ được cấp thẻ biểu quyết tương ứng với số vấn đề cần biểu quyết trong chương trình họp;
2. Chủ toạ, thư ký và ban kiểm phiếu của cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được quy định như sau:
a) Chủ tịch Hội đồng quản trị làm chủ toạ các cuộc họp do Hội đồng quản trị triệu tập; trường hợp Chủ tịch vắng mặt hoặc tạm thời mất khả năng làm việc thì các thành viên còn lại bầu một người trong số họ làm chủ toạ cuộc họp; trường hợp không có người có thể làm chủ toạ thì thành viên Hội đồng quản trị có chức vụ cao nhất điều khiển để Đại hội đồng cổ đông bầu chủ toạ cuộc họp trong số những người dự họp và người có số phiếu bầu cao nhất làm chủ toạ cuộc họp;
b) Trong các trường hợp khác, người ký tên triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông điều khiển để Đại hội đồng cổ đông bầu chủ toạ cuộc họp và người có số phiếu bầu cao nhất làm chủ toạ cuộc họp;
c) Chủ toạ cử một người làm thư ký lập biên bản họp Đại hội đồng cổ đông;
d) Đại hội đồng cổ đông bầu ban kiểm phiếu không quá ba người theo đề nghị của chủ toạ cuộc họp;
3. Chương trình và nội dung họp phải được Đại hội đồng cổ đông thông qua ngay trong phiên khai mạc. Chương trình phải xác định rõ và chi tiết thời gian đối với từng vấn đề trong nội dung chương trình họp;
4. Chủ toạ và thư ký họp Đại hội đồng cổ đông có quyền thực hiện các biện pháp cần thiết để điều khiển cuộc họp một cách hợp lý, có trật tự, đúng theo chương trình đã được thông qua và phản ánh được mong muốn của đa số người dự họp;
5. Đại hội đồng cổ đông thảo luận và biểu quyết theo từng vấn đề trong nội dung chương trình. Việc biểu quyết được tiến hành bằng cách thu thẻ biểu quyết tán thành nghị quyết, sau đó thu thẻ biểu quyết không tán thành, cuối cùng kiểm phiếu tập hợp số phiếu biểu quyết tán thành, không tán thành, không có ý kiến. Kết quả kiểm phiếu được chủ toạ công bố ngay trước khi bế mạc cuộc họp;
6. Cổ đông hoặc người được uỷ quyền dự họp đến sau khi cuộc họp đã khai mạc được đăng ký và có quyền tham gia biểu quyết ngay sau khi đăng ký. Chủ toạ không được dừng cuộc họp để những người đến muộn đăng ký; trong trường hợp này, hiệu lực của những biểu quyết đã tiến hành không bị ảnh hưởng;
7. Người triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông có quyền:
a) Yêu cầu tất cả người dự họp chịu sự kiểm tra hoặc các biện pháp an ninh khác;
b) Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền duy trì trật tự cuộc họp; trục xuất những người không tuân thủ quyền điều hành của chủ toạ, cố ý gây rối trật tự, ngăn cản tiến triển bình thường của cuộc họp hoặc không tuân thủ các yêu cầu về kiểm tra an ninh ra khỏi cuộc họp Đại hội đồng cổ đông;
8. Chủ toạ có quyền hoãn cuộc họp Đại hội đồng cổ đông đã có đủ số người đăng ký dự họp theo quy định đến một thời điểm khác hoặc thay đổi địa điểm họp trong trường các trường hợp sau đây:
a) Địa điểm họp không có đủ chỗ ngồi thuận tiện cho tất cả người dự họp;
b) Có người dự họp có hành vi cản trở, gây rối trật tự, có nguy cơ làm cho cuộc họp không được tiến hành một cách công bằng và hợp pháp.
Thời gian hoãn tối đa không quá ba ngày, kể từ ngày cuộc họp dự định khai mạc;
9. Trường hợp chủ toạ hoãn hoặc tạm dừng họp Đại hội đồng cổ đông trái với quy định tại khoản 8 Điều này, Đại hội đồng cổ đông bầu một người khác trong số những người dự họp để thay thế chủ toạ điều hành cuộc họp cho đến lúc kết thúc và hiệu lực các biểu quyết tại cuộc họp đó không bị ảnh hưởng.
Luật Doanh nghiệp 2005 cũng quy định rõ hơn về Thẩm quyền và thể thức lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản để thông qua quyết định của Đại hội đồng cổ đông.
Điều 105 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: “Trong trường hợp Điều lệ công ty không có quy định khác thì thẩm quyền và thể thức lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản để thông qua quyết định của Đại hội đồng cổ đông được thực hiện theo quy định sau đây:
1. Hội đồng quản trị có quyền lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản để thông qua quyết định của Đại hội đồng cổ đông bất cứ lúc nào nếu xét thấy cần thiết vì lợi ích của công ty;
2. Hội đồng quản trị phải chuẩn bị phiếu lấy ý kiến, dự thảo quyết định của Đại hội đồng cổ đông và các tài liệu giải trình dự thảo quyết định. Phiếu lấy ý kiến kèm theo dự thảo quyết định và tài liệu giải trình phải được gửi bằng phương thức bảo đảm đến được địa chỉ thường trú của từng cổ đông;
3. Phiếu lấy ý kiến phải có các nội dung chủ yếu sau đây:
…
4. Phiếu lấy ý kiến đã được trả lời phải có chữ ký của cổ đông là cá nhân, của người đại diện theo uỷ quyền hoặc người đại diện theo pháp luật của cổ đông là tổ chức.
Phiếu lấy ý kiến gửi về công ty phải được đựng trong phong bì dán kín và không ai được quyền mở trước khi kiểm phiếu. Các phiếu lấy ý kiến gửi về công ty sau thời hạn đã xác định tại nội dung phiếu lấy ý kiến hoặc đã bị mở đều không hợp lệ;
5. Hội đồng quản trị kiểm phiếu và lập biên bản kiểm phiếu dưới sự chứng kiến của Ban kiểm soát hoặc của cổ đông không nắm giữ chức vụ quản lý công ty.
Biên bản kiểm phiếu phải có các nội dung chủ yếu sau đây:….
Các thành viên Hội đồng quản trị và người giám sát kiểm phiếu phải liên đới chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của biên bản kiểm phiếu; liên đới chịu trách nhiệm về các thiệt hại phát sinh từ các quyết định được thông qua do kiểm phiếu không trung thực, không chính xác;
6. Biên bản kết quả kiểm phiếu phải được gửi đến các cổ đông trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày kết thúc kiểm phiếu;
7. Phiếu lấy ý kiến đã được trả lời, biên bản kiểm phiếu, toàn văn nghị quyết đã được thông qua và tài liệu có liên quan gửi kèm theo phiếu lấy ý kiến đều phải được lưu giữ tại trụ sở chính của công ty;
8. Quyết định được thông qua theo hình thức lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản có giá trị như quyết định được thông qua tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông.
Như vậy, nguyên nhân gây tranh chấp tại Công ty Cổ phần SX_DV_TM đã được Luật Doanh nghiệp 2005 khắc phục. Luật Doanh nghiệp 2005 đã có một giải pháp khôn ngoan khi không tước quyền tự thỏa thuận của cổ đông về thể thức, trình tự tiến hành họp và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông vì vẫn cho cổ đông tự thỏa thuận và ghi vào Điều lệ, tuy nhiên, để hướng dẫn hoặc phòng trường hợp Điều lệ không quy định thì thực hiện thể thức do Luật Doanh nghiệp 2005 quy định.
Tranh chấp số 08: tranh chấp giữa các cổ đông về việc bổ sung nội dung chương trình họp ĐHĐCĐ
1. Tóm tắt nội dung tranh chấp
Công ty cổ phần ĐA (sau đây gọi tắt là Công ty ĐA) được cổ phần hóa từ doanh nghiệp nhà nước, có 45% cổ phần thuộc sở hữu Nhà nước do Tổng công ty X là đại diện chủ sở hữu.
Ngày 20/01/2007, Công ty ĐA đã tiến hành ĐHĐCĐ thường niên năm 2005 để thông qua 09 nội dung. Trong đó, có 08 nội dung và nằm trong chương trình nghị sự ban tổ chức đã gửi trước cho các cổ đông theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều lệ công ty và Luật Doanh nghiệp. Riêng nội dung thứ 9 là “Bán phần vốn Nhà nước của Tổng công ty X” được bổ sung vào chương trình ngay sau khi ĐHĐCĐ đã biểu quyết thông qua 8 vấn đề trước đó. Khi ĐHĐCĐ thông qua xong 8 vấn đề trước đó, đại diện của Tổng công ty X là ông Dũng mới đứng dậy yêu cầu ĐHĐCĐ biểu quyết việc TCT X bán phần vốn Nhà nước.
Ngày 02/3/2009, Công ty ĐA mới gửi Biên bản họp và Nghị quyết ĐHĐCĐ cho các cổ đông Đăng và Đức. Sau khi xem xét Biên bản họp và Nghị quyết ĐHĐCĐ, các ông Đăng và ông Đức thấy rằng phần nội dung thứ 09 ghi trong Biên bản họp không đúng với nội dung đã được ĐHĐCĐ thông qua. Nội dung thứ 9 trong Biên bản họp ĐHĐCĐ ghi là: “Bán phần vốn Nhà nước của Tổng công ty X”. Trong khi đó, ĐHĐCĐ chỉ thông qua việc “Bán bớt phần vốn Nhà nước của Tổng công ty X”. (Biên bản và Nghị quyết gửi cho nguyên đơn ghi thiếu chữ “bớt”).
Ngày 09/03/2009, các nguyên đơn đã đệ đơn khởi kiện bị đơn đến Tòa án nhân dân thành phố Y yêu cầu tuyên hủy toàn bộ biên bản và Nghị quyết ĐHĐCĐ thường niên năm 2005 vì: việc bổ sung nội dung thứ 9 vào chương trình họp vi phạm quy định tại Khoản 2 Điều 99 và Khoản 3 Điều 103 Luật Doanh nghiệp và có hành vi gian dối sửa chữa biên bản Nghị quyết mà không cho cổ đông biết.
Tuy nhiên Công ty ĐA chỉ đồng ý hủy phần nội dung thứ 9 là “Bán phần vốn Nhà nước của Tổng công ty X”. Còn 8 nội dung khác không có căn cứ để hủy vì 8 nội dung này đã được ĐHĐCĐ đúng trình tự, thủ tục.
Người có quyền và nghĩa vụ liên quan là TCT X cho rằng việc bổ sung nội dung thứ 9 vào chương trình họp là đúng quy định vì: Theo quy định tại Khoản 4 Điều 102 Luật doanh nghiệp: ĐHĐCĐ có quyền thay đổi chương trình họp đã được gửi kèm thông báo mời họp. Do đó, việc đại diện TCT X đưa nội dung chuyển nhượng cổ phần và đại hội đã thảo luận bỏ phiếu và nhất trí nội dung chuyển nhượng cổ phần đó ngay tại phiên họp và đã thông báo bán cho đối tác bên ngoài là tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra, theo Điều lệ Công ty ĐA năm 2005 Điều 29.7 quy định: Quyết định của Chủ tọa về vấn đề trình tự thủ tục tại đại hội là phán quyết cao nhất, mà chủ tọa đồng ý và đại hội đã biểu quyết thông qua với tỷ lệ 86,79% việc đại diện TCT X trình bày về việc bán phần vốn Nhà nước.
2. Vấn đề tranh chấp cần giải quyết:
· Trình tự thủ tục bổ sung nội dung vào chương trình họp ĐHĐCĐ.
3. Giải quyết tranh chấp
Cơ sở giải quyết tranh chấp:Tranh chấp xảy ra tại thời điểm Luật Doanh nghiệp 2005 có hiệu lực, nên căn cứ để giải quyết là Luật Doanh nghiệp 2005 và Điều lệ công ty. Thực tế Điều lệ công ty hoàn toàn sao chép lại nội dung của Luật Doanh nghiệp 2005.
Theo quy định tại Điều 99 và Điều 103 Luật Doanh nghiệp 2005 thì để bổ sung một nội dung nào đó và chương trình họp ĐHĐCĐ cần thực hiện 2 bước:
- Bước 1: Phải có kiến nghị bổ sung nội dung chương trình họp ĐHĐCĐ
- Bước 2: ĐHĐCĐ chấp thuận bổ sung kiến nghị đó vào chương trình họp
Xem xét việc bổ sung nội dung thứ 9 vào chương trình họp ĐHĐCĐ ta nhận thấy việc bổ sung này hoàn toàn sai quy định về trình tự, thủ tục bổ sung. Cụ thể như sau:
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 99 Luật Doanh nghiệp thì ”kiến nghị bổ sung phải được gửi đến công ty 3 ngày làm việc trước ngày khai mạc” nhưng tại cuộc họp ĐHĐCĐ thì đại diện TCT X mới đề nghị bổ sung. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 99 Luật doanh nghiệp 2005 thì “kiến nghị bổ sung phải bằng văn bản” nhưng đại diện TCT X chỉ đứng dậy nói và yêu cầu ĐHĐCĐ thông qua việc TCT X bán bớt phần vốn nhà nước. Theo quy định tại Khoản 3 Điều 103 Luật Doanh nghiệp 2005: “Chương trình và nội dung họp phải được Đại hội đồng cổ đông thông qua ngay trong phiên khai mạc”. Như vậy, từ thời điểm ĐHĐCĐ thông qua chương trình họp thì chương trình họp đó là cố định, không ai có quyền bổ sung chương trình họp nữa.
Hộp 3: Phán quyết của Toà án
- Chấp nhận yêu cầu hủy một phần quyết định ĐHĐCĐ thường niên năm 2005 ngày 20/01/2007 của công ty CP ĐA của ông Đăng và ông Đức.
- Hủy bỏ một phần quyết định của ĐHĐCĐ thường niên năm 2005 của Công ty cổ phần ĐA tiến hành ngày 20/01/2007 phần nội dung thứ IX “ về bán phần vốn Nhà nước của Tổng Công ty X tại Công ty cổ phần ĐA”.
- Công ty Cổ phần ĐA phải tiến hành lại ĐHĐCĐ thường niên năm 2005 để xem xét nội dung “về bán phần vốn Nhà nước của Tổng Công ty X tại Công ty CP ĐA” nếu Tổng công ty X vẫn có yêu cầu và theo đúng trình tự quy định của pháp luật.
4. Nguyên nhân và bài học
Phán quyết của Tòa án trong trường hợp trên là đúng vì việc bổ sung nội dung chương trình họp phải trải qua thủ tục phức tạp. Muốn bổ sung một nội dung vào chương trình họp thì trước hết cần phải có kiến nghị bổ sung gửi trước khi khai mạc theo đúng thời hạn, hình thức kiến nghị và nội dung kiến nghị đã được luật định. Sau đó, kiến nghị bổ sung này có chính thức được bổ sung hay không còn phụ thuộc vào việc ĐHĐCĐ có chấp thuận bổ sung hay không. Người đại diện của TCT X trong tranh chấp trên không tuân thủ đúng trình tự bổ sung nội dung chương trình họp dẫn đến nội dung bổ sung vào chương trình họp dễ dàng bị hủy.
Trong vụ tranh chấp này có một vấn đề khác cũng cần lưu ý là: tại sao quá cuộc họp diễn ra ngày 20/01/2007 trong khi nguyên đơn lại khởi kiện vào ngày 09/03/2009 mà vẫn còn thời hiệu.
Theo Điều 79 Luật Doanh nghiệp 1999: “Trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày quyết định được thông qua, cổ đông, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc (Tổng giám đốc) và Ban kiểm soát có quyền yêu cầu Toà án xem xét và huỷ bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ đông trong các trường hợp sau đây:
1. Trình tự và thủ tục triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông không thực hiện đúng theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty;
2. Nội dung quyết định vi phạm quy định của pháp luật hoặc Điều lệ công ty”.
Theo quy định tại Điều 107 Luật doanh nghiệp năm 2005 thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu hủy bỏ quyết định của ĐHĐCĐ là “90 ngày kể từ ngày nhận được biên bản họp ĐHĐCĐ hoặc biên bản kết quả kiểm phiếu lấy ý kiến ĐHĐCĐ”. Thực tế ngày 02/3/2009 các cổ đông Đặng và Đức mới nhận được Biên bản họp và Nghị quyết ĐHĐCĐ nên ngày 09/3/2009 các cổ đông Đặng và Đức khởi kiện thì vẫn còn thời hiệu.
Đây là một tiến bộ của Luật Doanh nghiệp 2005 so với Luật Doanh nghiệp 1999.
Tranh chấp số 09: Tranh chấp về bổ nhiệm và bãi miễn Tổng Giám đốc – người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần
1. Tóm tắt nội dung tranh chấp
Công ty cổ phần S là một công ty niêm yết, có Điều lệ công ty tương tự như Điều lệ mẫu được ban hành kèm theo Quyết định 15/2007/QĐ-BTC của Bộ Tài Chính. Theo Điều lệ công ty thì Tổng Giám đốc là người đại diện theo pháp luật. Tháng 10/2007, Chủ tịch Hội đồng quản trị công ty lấy ý kiến các thành viên Hội đồng quản trị bằng văn bản về việc bãi miễn Tổng Giám đốc cũ và bổ nhiệm Tổng Giám đốc mới. (Tổng Giám đốc cũ là một trong 5 thành viên Hội đồng quản trị). Kết quả kiểm phiếu cho thấy có 3/4 phiếu biểu quyết đồng ý, 1/4 phiếu không có ý kiến (theo Khoản 5 Điều 31 Điều lệ mẫu thì việc bãi miễn Tổng Giám đốc cũ phải được ít nhất 2/3 thành viên Hội đồng quản trị biểu quyết tán thành và trong trường hợp này không tính biểu quyết của Tổng Giám đốc). Sau khi có kết quả lấy ý kiến, Chủ tịch Hội đồng quản trị thay mặt Hội đồng quản trị ký Quyết định bãi miễn Tổng Giám đốc cũ và bổ nhiệm Tổng Giám đốc mới.
Tổng Giám đốc cũ tuyên bố việc bổ nhiệm Tổng Giám đốc mới chưa có hiệu lực vì: Theo quy định tại Điểm e Khoản 2 Điều 14 Điều lệ mẫu thì việc bổ nhiệm Tổng Giám đốc mới của Hội đồng quản trị phải được Đại hội đồng cổ đông phê chuẩn. Do đó, chưa có ai để bàn giao nên Tổng Giám đốc cũ vẫn tiếp tục làm việc cho đến khi Tổng Giám đốc mới được Đại hội đồng cổ đông phê chuẩn. Ngoài ra, Tổng Giám đốc là người đại diện theo pháp luật, mà việc thay đổi người đại diện theo pháp luật theo Khoản 3 Điều 29 Nghị định 88/2006/NĐ-CP cần phải có Biên bản và Quyết định của Đại hội đồng cổ đông. Dựa vào các căn cứ pháp lý trên, Tổng Giám đốc cũ nhất định không chịu bàn giao công việc, sổ sách, con dấu công ty (thậm chí còn mua một két sắt cho đặt tại Phòng Tổ chức hành chính để cất con dấu còn bản thân mình thì giữ chìa khóa và mã mở két)
Chủ tịch Hội đồng quản trị lập luận rằng theo quy định tại Điểm i Khoản 3 Điều 25 Điều lệ mẫu và Điểm h Khoản 2 Điều 108 Luật Doanh nghiệp 2005 thì Hội đồng quản trị có toàn quyền bãi miễn Tổng Giám đốc cũ và việc bãi miễn này không cần phải phê chuẩn của Đại hội đồng cổ đông nên người bị bãi miễn không còn là Tổng Giám đốc nữa. Còn đối với việc bổ nhiệm Tổng Giám đốc mới cần phải có sự phê chuẩn của Đại hội đồng cổ đông mới có hiệu lực thì trong thời gian chờ phê chuẩn của Đại hội đồng cổ đông, người được bổ nhiệm giữ chức vụ Quyền Tổng Giám đốc. Việc Tổng Giám đốc cũ không bàn giao công việc, sổ sách, con dấu là không đúng quy định.
2. Vấn đề cần giải quyết:
· Quyết định bãi miễn Tổng Giám đốc cũ và bổ nhiệm Tổng Giám đốc mới có hiệu lực khi nào?
3. Giải quyết tranh chấp
Cơ sở giải quyết tranh chấp:Tranh chấp xảy ra tại thời điểm Luật Doanh nghiệp 2005 có hiệu lực, nên căn cứ để giải quyết là Luật Doanh nghiệp 2005 và Điều lệ công ty.
Theo quy định tại Điều lệ công ty thì Tổng Giám đốc là người đại diện theo pháp luật nên việc thay đổi Tổng Giám đốc đồng thời làm thay đổi người đại diện theo pháp luật. Nhưng theo quy định tại Khoản 3 Điều 29 Nghị định 88/2006/NĐ-CP thì việc thay đổi người đại diện theo pháp luật phải được Đại hội đồng cổ đông thông qua nên việc thay đổi Tổng Giám đốc cũng phải được Đại hội đồng cổ đông thông qua. Ngoài ra, theo quy định tại Điểm e Khoản 2 Điều 14 Điều lệ Công ty thì việc bổ nhiệm Tổng Giám đốc mới của Hội đồng quản trị phải được Đại hội đồng cổ đông phê chuẩn. Do đó, quyết định bãi miễn Tổng Giám đốc cũ và bổ nhiệm Tổng Giám đốc mới chỉ có hiệu lực khi được ĐHĐCĐ thông qua.
4. Nguyên nhân và bài học
Quy định tại Khoản 3 Điều 29 Nghị định 88/2006/NĐ-CP và Điểm e Khoản 2 Điều 14 Điều lệ mẫu hiện nay rất bất cập và gây ảnh hưởng lớn đến quản trị công ty.
Câu hỏi đặt ra là nếu ĐHĐCĐ không phê chuẩn việc bổ nhiệm Giám đốc/Tổng Giám đốc của HĐQT thì sao? Lúc này sẽ có tình trạng công ty không bổ nhiệm được Giám đốc/Tổng giám đốc do sự không đồng thuận giữa HĐQT và ĐHĐCĐ dẫn đến gián đoạn hoạt động kinh doanh do phải chờ HĐQT giới thiệu người khác và đợi xin ý kiến cổ đông b��ng văn bản hoặc triệu tập họp ĐHĐCĐ (nếu HĐQT và ĐHĐCĐ không đồng thuận thì quá trình này kéo dài không xác định). Trường hợp, Giám đốc/Tổng Giám đốc là người đại diện theo pháp luật việc hậu quả còn nặng nề hơn nữa.
Theo này Khoản 3 Điều 29 Nghị định 88/2006/NĐ-CP, hồ sơ thay đổi người đại diện theo pháp luật phải có bản sao biên bản, quyết định của ĐHĐCĐ về việc thay thế người đại diện theo pháp luật. Đối chiếu với quy định của Luật Doanh nghiệp ta thấy chỉ có hai trường hợp thay đổi người đại diện theo pháp luật do ĐHĐCĐ cũng quyết định: (i) Thay đổi Chủ tịch là người đại diện theo pháp luật thành Giám đốc/Tổng Giám đốc là người đại diện theo pháp luật và ngược lại; (ii) Chủ tịch HĐQT do ĐHĐCĐ bầu trực tiếp và là người đại diện theo pháp luật. Các trường hợp khác, việc thay đổi người đại diện theo pháp luật đều là thay đổi Chủ tịch HĐQT hoặc Giám đốc đều thuộc thẩm quyền quyết định của HĐQT.
Nhưng cơ quan đăng kinh kinh doanh lập luận rằng quy định này phù hợp với Khoản 15 Điều 22 Luật Doanh nghiệp.
Khoản 15 Điều 22 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định rằng chữ ký của người đại diện theo pháp luật công ty cổ phần là một phần nội dung Điều lệ công ty cho nên nếu công ty cổ phần thay đổi người đại diện theo pháp luật thì chữ ký của người đại diện theo pháp luật trong Điều lệ công ty sẽ phải thay đổi theo. Do đó, cơ quan đăng ký kinh doanh cho rằng việc thay đổi người đại diện theo pháp luật sẽ kéo theo việc thay đổi nội dung Điều lệ công ty vì chữ ký của người đại diện theo pháp luật cũng là một nội dung của Điều lệ, mà thay đổi nội dung Điều lệ công ty phải được Đại hội đồng cổ đông thông qua với tỷ lệ tối thiểu là 75% số cổ phần có quyền biểu quyết có mặt tại cuộc họp thông qua.
Như vậy, quy định chữ ký người đại diện theo pháp luật là một phần nội dung Điều lệ công ty tạo ra những hệ quả pháp lý rất nghiêm trọng.
Hộp 4: Ví dụ minh họa
Nếu một cá nhân làm người đại diện theo pháp luật và cá nhân đó sở hữu 25,1% cổ phần có quyền biểu quyết thì việc thay đổi người đại diện theo pháp luật phải trông chờ vào sự đồng ý của cá nhân đó, có nghĩa là cá nhân đó phải tự nguyện từ bỏ địa vị người đại diện theo pháp luật thì mới có thể thay đổi được. Vì, theo phân tích trên thì khi thay đổi người đại diện theo pháp luật đồng nghĩa với việc thay đổi nội dung Điều lệ công ty nên theo quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 104 Luật Doanh nghiệp thì phải được ít nhất 75% cổ phần có quyền biểu quyết có mặt tại cuộc họp thông qua. Với tỷ lệ này thì rõ ràng cá nhân sở hữu 25,1% đã đủ cổ phần để có thể phủ quyết việc thay đổi mình.. Nói cách khác, quy định này mâu thuẫn với quy định về quyền bổ nhiệm Giám đốc của HĐQT và lúc này, HĐQT chỉ có quyền tiến cử/ đề cử Giám đốc/Tổng Giám đốc.
PHẦN III. ĐÁNH GIÁ TỔNG KẾT TỪ THỰC TIỄN CÁC TRANH CHẤP ĐIỂN HÌNH TRONG DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
I. Nguyên nhân
Qua nghiên cứu các tranh chấp nói trên, chúng tôi có một số phát hiện về nguyên nhân và đặc điểm của các tranh chấp liên quan đến thực hiện Luật doanh nghiệp như sau.
Một là, đa số các tranh chấp phát sinh ở các công ty được cổ phần hóa từ doanh nghiệp nhà nước. Theo suy luận của chúng tôi, thì nguyên nhân các doanh nghiệp sau cổ phần hóa thường có tranh chấp vì các doanh nghiệp này chứa đựng các nguy cơ sau:
· Chính sách CPH và các văn bản pháp luật về CPH có nhiều điểm bất hợp lý tạo nên sự không minh bạch và cũng là nguyên nhân phát sinh tranh chấp.
· Các quy định về cổ đông sáng lập và hạn chế chuyển nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập là người lao động trong doanh nghiệp có nhiều điểm không hợp lý, vô hình chung đã tạo cho người lao động trở thành “ông chủ bất đắc dĩ”.
· Thói quen cũ trong việc quản lý và điều hành doanh nghiệp, mang nặng cách thức của quản lý hành chính trong bộ máy quản lý nhà nước của đội ngũ lãnh đạo trong doanh nghiệp sau cổ phần hóa là một nguyên nhân gây ra mâu thuẫn giữa họ với những cổ đông, nhà đầu tư mới – những người có tư duy và cách thức quản lý doanh nghiệp hiện đại, theo cơ chế thị trường.
· Khác với doanh nghiệp thông thường, được thành lập bởi một nhóm nguời có sự quen biết, cùng chung mục đích, và việc phân chia quyền lợi và nghĩa vụ rõ ràng và sự hợp tác được thiết lập trên cơ sở cùng có lợi, doanh nghiệp cổ phần hóa giống như một “miếng bánh” nơi mà các cổ đông muốn dành phần lớn trong miếng bánh đó. Đó chính là mầm mống của những mâu thuẫn. Mâu thuẫn này thường thấy đó là mâu thuẫn giữa các nhóm cổ đông.
Các nguy cơ trên dần dần đã được khắc phục bằng các quy định mới về cổ phần hóa và quy định hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp 2005.
Hai là, các thành viên, cổ đông và người quản lý trong công ty không hiểu rõ (hoặc không tuân thủ) và đúng đắn quyền, nghĩa vụ cũng như cách thức thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong công ty. Chính vì lý do đó, mà các thành viên, cổ đông và đồng thời là nhà quản lý thường hay lạm dụng quyền do không thực hiện quyền của mình theo đúng trình tự, thủ tục. Và cũng chính vì không hiểu cách thức bảo vệ quyền của mình khi bị vi phạm nên thường lựa chọn tòa án để giải quyết ngay sau khi hai bên không thống nhất với nhau. Rất nhiều tranh chấp sẽ không xảy ra nếu các bên, kể cả công ty hiểu rõ và hiểu đúng quy định của Luật doanh nghiệp thì tranh chấp cũng không xảy ra, ví dụ tranh chấp về quyền nhận cổ tức nói trên.
Ba là, một số tranh chấp thường phát sinh sau một thời gian hoạt động, đặc biệt một vài năm khi công ty làm ăn có lãi. Có thể nói nguyên nhân là do thời gian đầu các nhà đầu tư mới chỉ chủ yếu tìm kiếm cơ hội kinh doanh để đảm bảo sự phát triển và ổn định công ty; việc phân chia quyền lợi – nghĩa vụ không rõ ràng; quyết định của họ thường mang tính cá nhân, thường bỏ qua các yêu cầu thủ tục của luật; họ quên mất việc thiết lập ngay từ đầu một bộ máy quản trị doanh nghiệp minh bạch, đúng pháp luật.
Bốn là, trình tự, thủ tục giải quyết của tòa án thường kéo dài. Thông thường một vụ án phải đi qua ít nhất hai lần xét xử – sơ thẩm và phúc thẩm. Các phán quyết của tòa, trong nhiều trường hợp chưa rõ ràng, còn chung chung và rất khó thực hiện trên thực tế. Nhiều chuyên gia cho rằng, phán quyết của tòa thường xử cho mỗi bên thắng một ít. Chính vì phán quyết không khả thi, không rõ ràng thì có thể lại là nguyên nhân làm cho các tranh chấp không thể kết thúc[3].
Năm là, việc không tuân thủ đúng pháp luật nói chung và không tuân thủ Luật Doanh nghiệp nói riêng, đặc biệt trong việc góp vốn và quản trị doanh nghiệp là mầm mống làm phát sinh tranh chấp. Điển hình là các trường hợp “cam kết” góp vốn nhưng không góp; góp vốn nhưng không cấp giấy chứng nhận phần vốn góp; triệu tập họp không đúng trình tự, thủ tục; tự ý cách chức ông này, bỗ nhiệm ông kia,....
Sáu là, một phần tranh chấp phát sinh là do cách hành xử không đúng đắn của các cơ quan nhà nước có liên quan.
II. Kiến nghị
Từ những nguyên nhân nói trên, nhóm tác giả có một số khuyến nghị để làm giảm tối đa tranh chấp hoặc cách thức giải quyết tốt nhất.
Trước hết, doanh nghiệp phải được hiểu là một thực thể pháp luật và tồn tại độc lập với các bên thứ ba và ngay cả với nhà đầu tư. Doanh nghiệp có các quyền và nghĩa vụ riêng. Nhà đầu tư là thành viên hay cổ đông không sở hữu doanh nghiệp, mà họ chỉ sở hữu một phần vốn – tức là sở hữu những quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp, tương ứng với tỷ lệ vốn sử hữu của mình. Nhà đầu tư có thể thay đổi, nhưng doanh nghiệp vẫn tồn tại. Như vậy, khi các nhà đầu tư thực hiện các hoạt động kinh doanh thì phải hiểu đó là họ thực hiện nhân danh doanh nghiệp và vì lợi ích của doanh nghiệp nói chung; tất nhiên họ có động lực để làm vì lợi ích của họ gắn liền với lợi ích của doanh nghiệp.
Hai là, nắm vững, hiểu rõ và có ý thức tuân thủ quy định của Luật Doanh nghiệp là hết sức cần thiết đối với các nhà đầu tư – thành viên, cổ đông và nhà quản lý. Các nhà đầu tư – thành viên, cổ đông và nhà quản lý không chỉ phải hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình, mà còn phải hiểu rõ và đúng đắn “cách thức” thực hiện quyền và bảo vệ quyền lợi của mình. Chỉ khi họ biết và hiểu cách thức thực hiện quyền của mình thì mới tránh được các trường hợp lạm quyền. Nếu thành viên, cổ đông đồng thời là người quản lý thì họ còn phải phân biệt và tách biệt rõ vai trò của họ khi nào hành động với tư cách là thành viên, cổ đông; khi nào thì nhà quản lý, tránh sự nhầm lẫn.
Ba là, ngay từ đầu công ty nên xây dựng một bản điều lệ tốt và thiết lập một khung quản trị đúng pháp luật và minh bạch. Việc quản lý điều hành doanh nghiệp phải tuân thủ đúng các quy định cũng như yêu cầu của Luật, Điều lệ và các quy chế quản trị nội bộ. Không nên “duy tình” hoặc dùng mối quan hệ gia đình chi phối trong việc quản trị, điều hành doanh nghiệp.
Bốn là, việc sử dụng tòa án chỉ nên là giải pháp cuối cùng khi không còn một giải pháp nào tốt hơn. Theo chúng tôi, khi tranh chấp xảy ra, các bên có thể nhờ ngay chính cơ quan trong công ty như ban kiểm soát hoặc luật sư hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp thông qua con đường trọng tài. Chỉ khi không thể giải quyết được bằng các cách trên thì mới nên khởi kiện ra tòa án (lưu ý đến thời hiệu khởi kiện nếu sử dụng tố tụng Toà án).
Năm là, nâng cao hiểu biết của các cơ quan nhà nước có liên quan đến thực hiện Luật doanh nghiệp, đặc biệt là cơ quan ĐKKD và hệ thống tòa án. Tòa án, cần tích cực hơn nữa, chủ động hơn trong việc trao đổi, nắm vững các quy định của Luật doanh nghiệp.
Sáu là, Cần xây dựng mới hệ thống pháp luật kinh doanh và hệ thống xét xử hiệu quả phù hợp với lộ trình hội nhập WTO; vì hiện nay việc xét xử khiếu kiện kéo dài, tốn kém…thêm vào đó các phán quyết của Toà án không được nghiêm chỉnh thực hiện, không có các biện pháp cưỡng chế hữu hiệu hay không thể thi hành án được.
III. KẾT LUẬN
Tập hợp các tranh chấp điển hình trong doanh nghiệp được tiếp cận dưới nhiều giác độ và trong suốt quá trình 10 năm thi hành Luật doanh nghiệp; bao gồm các tranh chấp được biên soạn từ các bản án của Toà án Việt Nam, các tranh chấp thực tế phát sinh và được giải quyết thông qua các biện pháp hành chính, các tranh chấp khác được sưu tầm và tuyển chọn qua báo chí, thực tế tiếp xúc và tư vấn, trao đổi với khách hàng sẽ trở thành cẩm nang cho các nhà đầu tư khi bắt tay vào khởi sự kinh doanh và/hoặc các nhà đầu tư đã và đang mong muốn xây dựng cho mình một khung quản trị Công ty hiệu quả.
Giảm thiểu các tranh chấp trong doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế lành mạnh, góp phần thúc đẩy hoạt động của công ty, tăng cường khả năng tiếp cận của công ty với các nguồn vốn bên ngoài ở mức chi phí thấp hơn. Với việc tăng cường quản trị của công ty và quản lý rủi ro tốt hơn sẽ góp phần vào việc tăng cường đầu tư và phát triển bền vững.
Có thể nhận thấy rằng, với nỗ lực tuyên truyền về Luật Doanh nghiệp 1999, và Luật Doanh nghiệp 2005 và những nỗ lực cải tiến, hoàn thiện khung khổ pháp luật nói chung, các tranh chấp trong doanh nghiệp Việt Nam đã giảm dần về số lượng cũng như mức độ phức tạp của các tranh chấp. Đặc biệt, những tranh chấp giữa doanh nghiệp với các cơ quan nhà nước và sự can thiệp hành chính trái thẩm quyền của cơ quan nhà nước vào các công ty nhà nước đã cổ phần hóa đã giảm đáng kể. Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập hiện nay, cần rất nhiều nỗ lực từ nhiều phía để giảm thiểu tranh chấp trong kinh doanh ở các doanh nghiệp Việt Nam.... Các giải pháp bao gồm: Nâng cao nhận thức về bản chất, nội dung và ý nghĩa của khung quản trị công ty; thay đổi cách thức và nâng cao hiệu lực thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước; nâng cao nhận thức về vai trò của người quản lý công ty; cải thiện chế độ công khai hóa thông tin; công khai hóa và giám sát có hiệu quả các giao dịch với các bên có liên quan và củng cố vai trò, nâng cao hoạt động của Ban kiểm soát, chắc chắn sẽ góp phần cải thiện chất lượng và hiệu lực thực tế của quản trị công ty ở nước ta. Đó cũng là điều rất cần thiết góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp và của cả nền kinh tế trong điều kiện hội nhập./
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.. 2
CÁC TỪ VIẾT TẮT.. 3
PHẦN I. MỤC ĐÍCH, PHẠM VI CỦA BÁO CÁO.. 4
I.Mục đích của Báo cáo. 4
II.Phạm vi của Báo cáo.4
PHẦN II: MỘT SỐ TRANH CHẤP ĐIỂN HÌNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM7
Tranh chấp 01: về quyền dự họp và trình tự, thủ tục triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ.. 7
Tranh chấp số 02: Tranh chấp về chuyển nhượng phần vốn góp và phân chia lợi nhuận giữa các thành viên Công ty Trách nhiệm hữu hạn. 11
Tranh chấp số 03: Tranh chấp giữa các cổ đông về việc góp vốn thành lập, hoạt động và giải thể công ty cổ phần 18
Tranh chấp 04: Về trình tự thủ tục triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ bất thường trong công ty cổ phần. 28
Tranh chấp số 05: Về việc chuyển nhượng cổ phần. 36
Tranh chấp số 06: Tranh chấp về quyền mua cổ phần phát hành mới và trình tự thủ tục cuộc họp Đại hội đồng cổ đông 39
Tranh chấp số 07: Tranh chấp về trình tự thủ tục thông qua quyết định cuộc họp ĐHĐCĐ và quyền quản lý công ty cổ phần 46
Tranh chấp số 08: tranh chấp giữa các cổ đông về việc bổ sung nội dung chương trình họp ĐHĐCĐ.. 52
Tranh chấp số 09: Tranh chấp về bổ nhiệm và bãi miễn Tổng Giám đốc – người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần 55
Tranh chấp số 10: Tranh chấp giữa Cơ quan đăng ký kinh doanh và thành viên công ty về việc đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật58
PHẦN III. ĐÁNH GIÁ TỔNG KẾT TỪ THỰC TIỄN CÁC TRANH CHẤP ĐIỂN HÌNH TRONG DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ. 63
I.Nguyên nhân. 63
II.Kiến nghị65
III.Kết luận. 66
[1] Nguồn: http://vietnamnet.vn/kinhte/2009/03/836837/
[2] Theo báo điện tử Dân trí www.dantri.com.vn ngày 23/05/2009
[3] Tham khảo kinh nghiệm của Singapore: Tối thứ 5 hàng tuần sẽ có các phiên xét xử -Toà án Adhoc, để giải quyết các tranh chấp trong Công ty, chỉ xét xử một lần và án có hiệu lực ngay
THAM KHẢO VÀ DỊCH VỤ TƯ VẤN LIÊN QUAN: