Luật sư tư vấn:

1. Giải quyết tranh chấp bằng hình thức khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền

Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được về việc xử lý tài sản bảo đảm, thì buộc phải khởi kiện ra Toà án và theo đuổi vụ án giải quyết tranh chấp như một vụ án thông thường, mất rất nhiều thời gian, chi phí.

Yêu cầu giải quyết tranh chấp về tài sản bảo đảm nhiều nhất là các tổ chức tín dụng. Thực tiễn xử lý nợ cho thấy các tổ chức tín dụng phải sử dụng nhiều giải pháp để xử lý nợ, nhưng nếu không đem lại hiệu quả thì khởi kiện ra Toà án để thu hồi nợ sẽ là giải pháp cuối cùng. Quá trình này thường mất rất nhiều thời gian (Toà án giải quyết xong một vụ án thường mất một vài năm) và chi phí của tổ chức tín dụng. Đặc biệt, muốn xử lý tài sản thế chấp thì không khởi kiện được thẳng bên có tài sản thế chấp, mà phải kiện bên vay vốn (được cấp tín dụng).

Nguyên nhân khó khăn, vướng mắc là do cơ chế, thủ tục xử lý tài sản bảo đảm còn rườm rà, phức tạp và phụ thuộc quá nhiều vào ý chí của bên bảo đảm (bên có nghĩa vụ thanh toán nợ) như người bị kiện, người có quyền và nghĩa vụ liên quan bỏ trốn khởi nơi cư trú, cố ý trì hoãn vắng mặt nhiều lần ở phiên toà. Có nhiều trường hợp người vay vốn, người thế chấp, bảo lãnh vay vốn bị khởi tố, điều tra xử lý trong một vụ án hình sự khác không liên quan đến việc người vay vốn, bên thế chấp, bên bảo lãnh vay vốn tại tổ chức tín dụng, nhưng Toà án vẫn ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án để chờ kết quả giải quyết của cơ quan điều tra. Hoặc tổ chức tín dụng cũng phải chò đợi khi Toà án quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án để đợi cơ quan nhà nước có thẩm quyền trả lời về nội dung Toà án có văn bản hỏi.

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 không quy định nguyên đơn, bị đơn và các chủ thể khác tham gia tố tụng dân sự là cá nhân và pháp nhân mà lại quy định là “cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Tuy nhiên, các cơ quan, tổ chức đó đều phải có tư cách pháp nhân (nếu không thì chỉ là cá nhân). Trên thực tế, Toà án chưa từng chấp nhận chủ thể tham gia quan hệ tố tụng dân sự là hộ gia đình hay doanh nghiệp tư nhân, mà là các thành viên của hộ gia đình hay chủ doanh nghiệp tư nhân.

Khi nộp Đơn khởi kiện, dù đã ghi đầy đủ các nội dung của Đơn khởi kiện và nộp đầy đủ hồ sơ liên quan trực tiếp đến khoản nợ như hợp đồng tín dụng, hợp đồng thê' chấp, khế ước nhận nợ, nhưng trên thực tế thì vẫn thường xuyên bị Toà án yêu cầu kèm theo nhiều giấy tờ pháp lý của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan như bản sao hộ khẩu, Chứng minh nhân dân của bị đơn là cá nhân; Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, Điều lệ của bị đơn là doanh nghiệp. Những tài liệu này không hề được đề cập trong các quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, cũng như trong các văn bản hướng dẫn, kể cả mẫu Đơn khởi kiện.

Trong nhiều năm qua, đã có quá nhiều Đơn khởi kiện không được Toà án thụ lý hoặc bị đình chỉ vì lý do không xác định được địa chỉ của bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (kể cả đã làm thủ tục thông báo vắng mặt). Khi đó, vụ án sẽ bị kéo dài vô thời hạn vì đương sự đã dễ dàng vô hiệu hoá pháp luật, qua mặt cơ quan tư pháp, coi thường Toà án, chống đối công lý, chỉ bằng cách thức rất đơn giản là thay đổi địa chỉ hay phớt lờ lệnh của Toà án.

Một trong những vướng mắc thường gặp phải trong quá trình khởi kiện là Toà án trả lại Đơn khởi kiện hoặc Quyết định tạm đình chỉ vụ án vì lý do “không ghi đúng địa chỉ của bị đơn” hay “chưa tìm được địa chỉ của bị đơn” (lý do không đúng luật), do bị đơn thay đổi địa chỉ hoặc cố tình không phản hồi các yêu cầu phát sinh trong quá trình tố tụng. Mặc dù điều này đã được quy định rõ: “Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sồ mà không thông báo địa chỉ mối cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung”. Cũng trong tình huống này, thì Trọng tài thương mại lại hoàn toàn chủ động giải quyết theo trình tự vắng mặt bị đơn.

Khác với phán quyết của Trọng tài thương mại có hiệu lực thi hành ngay, nếu Bản án, quyết định của Toà án sơ thẩm bị các đương sự kháng cáo, Viện kiểm sát hoặc Chánh án kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm.

2. Giải quyết tranh chấp trong giao dịch bảo đảm bằng hình thức Trọng tài

Giải quyết tranh chấp trong giao dịch bảo đảm bằng hình thức trọng tài là việc thông qua trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba độc lập, nhằm chấm dứt những bất đồng, xung đột giữa các bên bằng việc trọng tài đưa ra một phán quyết buộc các bên phải thực hiện.
Pháp luật hiện hành có nhiều quy đỉnh về việc giải quyết tranh chấp thông qua Trọng tài thương mại, như Luật Dầu khí năm 1993 (sửa đổi, bổ sung nấm 2000 và 2008), Luật Giao thông thủy nội địa năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2014), Luật Thương mại năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005, Luật Chứng khoán năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2010, 2018), Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006 (sửa đổi năm 2013), Luật Công nghệ thông tin năm 2006, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2014), Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2018), Luật Bưu chính năm 2010, Luật Xây dựng năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2016, 2018), Luật Khoa học và công nghệ năm 2013, Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Đầu tư năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2016, 2017, 2018), Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2018), Bộ luật Dân sự năm 2015, V.V..

Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại là một cơ chế thích hợp nhất, vì nó nhanh chóng, bí mật, linh hoạt, chính xác, ít tốn kém. Trung tâm Trọng tài thương mại chỉ là một định chế phi chính phủ, nhưng có chức năng như Toà án, thay mặt Nhà nước phân xử đúng sai tương tự như Toà án. Các Trung tâm Trọng tài thương mại không chĩ giúp các doanh nghiệp, mà còn giúp cả Nhà nước trong việc vận hành có hiệu quả nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, cho đến nay, Trọng tài thương mại mới chỉ chia sẻ được một phần rất ít ỏi “gánh nặng” với Toà án trong việc giải quyết tranh chấp thương mại.

Giai đoạn từ năm 1990 đến 30/6/1994, việc giải quyết tranh chấp kinh tế do Trọng tài kinh tế đảm nhiệm theo quy định của Pháp lệnh trọng tài kinh tế năm 1990.

Từ 01/7/1994, chức năng giải quyết tranh chấp kinh tế do Toà kinh tế, Toà án nhân dân đảm nhiệm . Đồng thời, các bên có thêm một sự lựa chọn nữa là có thể giải quyết tranh chấp tại Trung tâm Trọng tài kinh tế theo quy định tại Nghị định số 116/CP ngày 05/9/1994 của Chính phủ về “Tổ chức và hoạt động của Trọng tài kinh tế” và sau đó là Trung tâm Trọng tài thương mại theo quy định tại Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003. Tuy Pháp lệnh quy định, phán quyết của Trọng tài có hiệu lực bắt buộc các bên phải thi hành, nhưng nếu không thi hành thì lại không có cơ chế cưỡng chê bắt buộc thi hành như đối với bản án, quyết định của Toà án. Vì vậy, trong giai đoạn này phán quyết của Trọng tài gần như không có hiệu lực trên thực tế và các bên rất hiếm khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài kinh tế hay Trọng tài thương mại.

Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã mồ rộng và xác định rõ phạm vi thẩm quyền của Trọng tài thương mại trong nhiều loại tranh chấp liên quan đến kinh doanh (gồm tranh chấp giữa các bên. phát sinh từ hoạt động thương mại; tranh chấp phát sinh giữa các bên, trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài thương mại như tranh chấp hợp đồng vay vốh với mục đích tiêu dùng).

Đến tháng 5/2018 có 14 Trung tâm trọng tài thương mại, trong đó nổi bật là Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC), được thành lập theo Quyết định số 204/TTg ngày 28/4/1993 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sỗ hợp nhất Hội đồng Trọng tài Ngoại thương (thành lập nám 1963) và Hội đồng Trọng tài Hàng hải (thành lập năm 1964).

Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thỏa thuận Trọng tài bằng văn bản trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.

Một trong những vướng mắc lớn nhất là Trọng tài thương mại chỉ giải quyết tranh chấp khi có thỏa thuận của các bên; do đó nếu vụ việc tranh chấp có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của người thứ ba, thì không triệu tập và ra phán quyết được về phần đó.

Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định “trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài mà một bên khỏi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được”. Tuy nhiên, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao lại có hướng dẫn, trường hợp các bên vừa có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, vừa có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Toà án thì vụ án được khỗi kiện trước ở cơ quan nào, sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan đó.

Tóm lại, nếu các bên chỉ thỏa thuận việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại thì phải đưa tranh chấp ra Trọng tài giải quyết. Nếu các bên thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng cả Trọng tài và Toà án thì có thể lựa chọn một trong hai cơ quan này để giải quyết tranh chấp.

Phán quyết Trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành; đồng thời được Nhà nước bảo đảm việc cưỡng chế thi hành như đối với bản án, quyết định của Toà án.

Ngoài ra, với quy định hiện hành, còn tiềm ẩn nguy cơ Toà án hủy phán quyết Trọng tài thương mại vì những lý do không xác đáng. Đặc biệt, là bản án hủy phán quyết Trọng tài là chung thẩm, không được xem xét lại theo trình tự phúc thẩm như đối với bản án, quyết định khác của Toà án. Và sau khi phán quyết Trọng tài thương mại bị hủy, lại không buộc phải giải quyết tiếp bằng tố tụng trọng tài, mà lại cho phép đương sự quay sang giải quyết tranh chấp tại Toà án.

3. Giải quyết tranh chấp trong giao dịch bảo đảm bằng phương thức hòa giải

Cũng như các loại tranh chấp khác, tranh chấp liên quan đến việc nhận bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm cũng có thể được giải quyết thông qua phương thức hòa giải. Nếu tranh chấp về bảo đảm là tranh chấp thương mại hoặc gắn liền với tranh chấp thương mại thì có thể sử dụng phương thức hòa giải thương mại.

Hoà giải thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại do các bên thỏa thuận và được hòa giải viên thương mại làm trung gian hòa giải hỗ trợ giải quyết tranh chấp.

Việc hòa giải thương mại là việc hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hòa giải đã được quy định trong nhiều đạo luật như Luật Thương mại năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2018), Luật Đầu tư năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2016, 2017, 2018), Luật Nhà ồ năm 2014, Luật xây dựng năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2016, 2018). Một trong những cơ quan hòa giải chuyên nghiệp là Trung tâm trọng tài thương mại .

Tuy nhiên, khác với hòa giải những vấn đề tranh chấp trong cộng đồng dân cư đã có Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013, hòa giải tranh chấp trong quá trình giải quyết tranh chấp đã có Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, hòa giải tranh chấp về quyền lợi của người tiêu dùng đã có Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2018); hòa giải tranh chấp thương mại thì mới chỉ được quy định cụ thể trong Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24/02/2017 của Chính phủ về “Hoà giải thương mại”. Quy định về tổ chức và hoạt động của Trung tâm hòa giải thương mại cũng tương tự như đốỉ với Trung tâm trọng tài thương mại. Tuy nhiên, Trung tâm hòa giải thương mại lại không được xác định là một trong 243 ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện trong Luật Đầu tư năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2016, 2017, 2018) như đối với Trung tâm trọng tài thương mại. Vì vậy, có thể nói Nghị định này là có sự mâu thuẫn với Luật Đầu tư năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2016, 2017, 2018).

Tranh chấp được giải quyết bằng hòa giải thương mại nếu các bên có thỏa thuận hòa giải bằng văn bản dưới hình thức điều khoản hòa giải trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng và diễn ra trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp hoặc tại bất cứ thời điểm nào của quá trình giải quyết tranh chấp.

Văn bản về kết quả hòa giải thành có hiệu lực thi hành đối với các bên theo quy định của pháp luật dân sự và được xem xét công nhận theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Toà án có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm và được thi hành theo quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Biện pháp hòa giải hầu như không được áp dụng trên thực tế trước khi có Nghị định số 22/2017/NĐ-CP, vì tính chất của loại tranh chấp này, bên trung gian hòa giải ít có vai trò.