Mục lục bài viết
- 1. Khái quát chung về quyền dân sự.
- 2. Các phương thức bảo vệ quyền dân sự.
- 2.1. Công nhân tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo quyền dân sự của mình.
- 2.2. buộc chấm dứt hành vi vi phạm.
- 2.3. Buộc xin lỗi, cải thiện công khai.
- 2.4. Buộc thực hiện nghĩa vụ.
- 2.5. Buộc bồi thường thiệt hại.
- 2.6. Hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền.
- 2.7. Yêu cầu khác theo quy định của luật.
1. Khái quát chung về quyền dân sự.
Quyền dân sự được coi là một khái niệm được bao hàm trong nội dung của quyền con người, được pháp luật quốc tế cũng như pháp luật Việt Nam thừa nhận và bảo vệ, “quyền dân sự ở một khía cạnh nhất định chính là những lợi ích mà các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự mong muốn đạt được, đó có thể là những quyền lợi liên quan đến vật chất hoặc/ và những lợi ích về tinh thần”.
Khi quyền dân sự bị vi phạm (xâm phạm), chủ thể có thể sử dụng các biện pháp bảo vệ mà pháp luật cho phép hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền dân sự của mình khi quyền đó bị xâm hại.
Trường hợp cá nhân, pháp nhân lựa chọn phương thức tự bảo vệ quyền dân sự thì việc tự bảo vệ phảiphù hợp với tính chất, mức độ của hành vi vi phạm và không được vượt quá giới hạn cần thiết do luật định để ngăn chặn hành vi vi phạm đó.Trường hợp quyền dân sự bị vi phạm mà có thiệt hại thì cá nhân, pháp nhân được bồi thường toàn bộthiệt hại, trừ trường hợp trong hợp đồng hoặc luật có quy định khác.Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác có trách nhiệm bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân.Trường hợp quyền dân sự bị vi phạm hoặc có tranh chấp thì việc bảo vệ quyền được thực hiện theopháp luật tố tụng tại Tòa án hoặc trọng tài. Việc bảo vệ quyền dân sự theo thủ tục hành chính đượcthực hiện trong những trường hợp luật định. Quyết định giải quyết vụ việc theo thủ tục hành chính cóthể được xem xét lại tại Tòa án. Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ, việc dân sự vì lý dochưa có điều luật để áp dụng; trong trường hợp này, quy định về áp dụng tập quán, tương tự pháp luật,nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, lẽ công bằng hoặc án lệ được áp dụng để xem xét, giải quyết.
2. Các phương thức bảo vệ quyền dân sự.
Phương thức bảo vệ quyền dân sự được ghi nhận tại Điều 11 Bộ luật dân sự 2015, cụ thể:
“Khi quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền:
1. Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của mình.
2. Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm.
3. Buộc xin lỗi, cải chính công khai.
4. Buộc thực hiện nghĩa vụ.
5. Buộc bồi thường thiệt hại.
6. Hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền.
7. Yêu cầu khác theo quy định của luật.“
2.1. Công nhân tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo quyền dân sự của mình.
Theo nguyên tắc cơ bản, pháp luật dân sự công nhận, tôn trọng, bảo vệ quyền của chủ thể trong quan hệ dân sự, nhưng quan hệ dân sự đó phải xác lập, thực hiện không trái với nguyên tắc cơ bản của BLDS năm 2015. Chủ thể trong quan hệ dân sự khi bị xâm phạm có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ:
- Khi quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân bị xâm phạm sẽ được Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận các quyền của chủ thể khi người đó tham gia xác lập, thực hiện các quan hệ dân sự. Việc công nhận có thể từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc sự công nhận của chủ thể khác và cộng đồng xã hội.
- Khi quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân bị xâm phạm sẽ được pháp luật dân sự, Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền tôn trọng các quyền của chủ thể khi quyền dân sự của chủ thể đó bị xâm phạm. Việc tôn trọng có thể từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi các quan hệ dân sự có tranh chấp, bị xâm phạm; hoặc sự tôn trọng của chủ thể khác trong quan hệ dân sự và sự tôn trọng của cộng đồng xã hội.
- Khi quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân được xác lập, thực hiện không trái với nguyên tắc cơ bản của BLDS năm 2015 sẽ được pháp luật dân sự bảo đảm. Nghĩa là, khi quyền dân sự bị xâm phạm sẽ được pháp luật dân sự, Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ. Việc bảo đảm chính là sự công nhận của nhà nước đối với quyền dân sự của chủ thể đó trong quan hệ dân sự cụ thể bằng các biện pháp cưỡng chế.
2.2. buộc chấm dứt hành vi vi phạm.
Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm là phương thức bảo vệ thứ hai được ghi nhận tại Điều 11. Đây là phương thức khá điển hình và được nhiều người sử dụng. Việc buộc chấm dứt hành vi xâm phạm nhằm tránh tình trạng tiếp tục gây ra những thiệt hại cho người mang quyền. Về nguyên tắc, mọi chủ thể được thực hiện các hành vi theo ý chí của mình những không được gây thiệt hại, ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng và quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Do vậy, trong quá trình thực hiện các phương thức này, chủ thể ó quyền thực hiện thông báo, nhắc nhở, yêu cầu chủ thể thực hiện hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi đó. Ưu điểm của phương thức này là khả năng bảo vệ quyền dân sự một cách nhanh chóng, kịp thời, trong nhiều trường hợp có thể tránh được thiệt hại xảy ra. Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm thể hiện rõ trong các quy định về bảo vệ quyền sở hữu.
2.3. Buộc xin lỗi, cải thiện công khai.
Trách nhiệm pháp lý khi buộc xin lỗi, cải chính công khai trong một chừng mực cũng là thái độ của nhà nước đối với hành vi không đúng mực đã xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của một chủ thể nhất định. Buộc xin lỗi, cải chính công khai trong nhiều trường hợp được áp dụng bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước khi chủ thể có quyền bị vi phạm có yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ.
Cơ sở để xác lập các quan hệ dân sự theo nguyên tắc cơ bản của BLDS năm 2015 là: tự nguyện, bình đẳng giữa các chủ thể và quyền tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận của các chủ thể trong giao lưu dân sự. Vì vậy, khi có chủ thể có lỗi làm thiệt hại và ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ thể khác, thì quy định về buộc xin lỗi để khắc phục những hậu quả là để xây dựng nếp sống văn hóa lành mạnh trong cộng đồng xã hội. Đây chính là nét đẹp truyền thống của đời sống xã hội nước ta.
Trong trường hợp Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra các văn bản không đúng với thực tế khách quan vụ việc, làm thiệt hại và ảnh hưởng đến quyền lợi của một hay nhiều chủ thể, thì quy định về cải chính công khai là phương thức khắc phục những hậu quả đã xảy ra.
Buộc xin lỗi, cải chính công khai nhằm khắc phục những hậu quả xấu về tài sản và tinh thần cho bên chủ thể có quyền bị xâm phạm là một phương thức bảo vệ quyền dân sự.
2.4. Buộc thực hiện nghĩa vụ.
Trong các quan hệ pháp luật dân sự thuần túy, quyền của bên này là nghĩa vụ tương ứng đối với bên kia và ngược lại. Ví dụ, trong hợp đồng mua bán tài sản, bên mua có nghĩa vụ trả tiền theo thời hạn, địa điểm và mức tiền được quy định trong hợp đồng, trong trường hợp bên mua không thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền thì phải trả lãi trên số tiền chậm trả. Như vậy, nghĩa vụ là cái ràng buộc cực kỳ lớn, nó mang tính bắt buộc mà dù trong tình huống nào (trừ trường hợp bất khả kháng, trở ngại khách quan) thì người có nghĩa vụ cũng phải thực hiện nhằm bảo đảm quyền cho bên còn lại. Nghĩa vụ phải thực hiện có thể do thỏa thuận hoặc do pháp luật ấn định. Buộc thực hiện nghĩa vụ có thể do cá nhân, pháp nhân tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước bảo vệ.
2.5. Buộc bồi thường thiệt hại.
Biện pháp này được áp dụng trong trường hợp đã có thiệt hại về sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín, xảy ra. Yêu cầu bồi thường thiệt hại thường có thể áp dụng độc lập hoặc kết hợp với các phương thức khác như buộc chấm dứt hành vi xâm phạm. Thiệt hại có thể là thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần, ví dụ như làm hư hỏng một phần hoặc toàn bộ, tài sản bị tiêu hủy, hủy hoại,…Việc xác định mức bồi thường hoàn toàn phụ thuộc vào người mang quyền trên cơ sở thỏa thuận, đồng ý từ người được yêu cầu bồi thường cũng như các chứng từ, giấy biên nhận hợp lệ về các khoản chi phí đã bỏ ra để khắc phục thiệt hại. Buộc bồi thường thiệt hại thường được cá nhân, pháp nhân yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng trong trường hợp có thiệt hại về quyền tài sản.
Việc buộc bồi thường thiệt hại phải có đầy đủ các căn cứ: (1) Có thiệt hại xảy ra; (2) Có hành vi trái pháp luật xâm phạm quyền dân sự; (3) Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật xâm phạm quyền dân sự với thiệt hại xảy ra; (4) Có lỗi của người gây thiệt hại.
2.6. Hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền.
| Trong thực tế áp dụng pháp luật, có không ít Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có việc nhận thức chưa đúng, đánh giá các sự vật, hiện tượng chưa khách quan, chưa phù hợp với thực tế nên đã gây ra thiệt hại hoặc có thể sẽ gây ra thiệt hại cho một chủ thể. Có thực trạng này do có những khó khăn, trở ngại khách quan; nhận thức chưa đúng và thiếu thống nhất trong việc áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ dân sự.
– Một trong những phương thức bảo vệ quyền dân sự là pháp luật cho phép chủ thể khi bị thiệt hại hoặc có thể sẽ bị thiệt hại do những quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền thì có quyền khởi kiện, khiếu nại. Hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền là một trong những phương thức bảo vệ quyền dân sự có ý nghĩa quan trọng khi chủ thể bị thiệt hại hoặc có thể sẽ bị thiệt hại khiếu nại, khiếu kiện yêu cầu giải quyết.
2.7. Yêu cầu khác theo quy định của luật.
– Ngoài những phương thức bảo vệ quyền dân sự kể trên, do quan hệ dân sự và các yêu cầu của các chủ thể rất đa dạng, phong phú nên có thể còn có những yêu cầu khác trong quan hệ dân sự cụ thể. Có điều này cũng là do sự đa dạng, phong phú và tính phức tạp của các quan hệ dân sự trong đời sống xã hội mà các nhà làm luật chưa thể dự liệu ngay được.
Để những quyền dân sự được xác lập được pháp luật dân sự bảo hộ, thì quy định có tính chất “mở” này là cần thiết. Vì vậy, khoản 1 Điều 11 BLDS năm 2015 đã kế thừa các bộ luật trước đó và quy định: “Yêu cầu khác theo quy định của luật”.