Mục lục bài viết
Nội dung được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Dân sự của Công ty luật Minh Khuê
>> Luật sư tư vấn pháp luật Dân sự, gọi: 1900 6162
1. Các thế hệ nhân quyền là gì?
Nhân quyền (hay quyền con người) là những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Ở Việt Nam, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn được tôn trọng và bảo đảm.
Năm 1977, Karel Vasak đưa ra ý tưởng về ba "thế hệ nhân quyền" (generations of human rights) nhằm phân tích lịch sử phát triển của quyền con người.
Thế hệ thứ nhất, các quyền dân sự, chính trị:
Thế hệ nhân quyền này hướng vào hai vấn đề chính, đó là tự do và sự tham gia vào đời sống chính trị của các cá nhân. Nó bao gồm các quyền và tự do cá nhân về phương diện dân sự và chính trị; tiêu biểu như quyền sống, quyền tự do tư tưởng, tự do tôn giáo tín ngưỡng, tự do biểu đạt, quyền được bầu cử, ứng cử, quyền được xét xử công bằng... Thế hệ nhân quyền này gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản lật đô’ chế độ phong kiến. Những văn kiện pháp lý quốc tế tiêu biểu hiện nay đề cập đến thế hệ quyền này là Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người, 1948 (sau đây viết tắt là UDHR) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, 1966 (sau đây viết tắt là ICCPR).
Thế hệ thứ hai, các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa:
Thế hệ nhân quyền này hướng vào việc tạo lập những điều kiện và sự đối xử bình đẳng, công bằng cho mọi công dân trong xã hội. Chúng được đề xướng và vận động từ cuối thế kỷ XIX, và bắt đầu được quan tâm bởi một số chính phủ kể từ sau Chiến tranh thế giới I. Các quyền tiêu biểu thuộc về thế hệ quyền này bao gồm quyền có việc làm, quyền được bảo trợ xã hội, quyền được chăm sóc y tế, quyền có nhà ở... Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên (nước Nga Xô viết) vào năm 1917 và sau đó là hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới trong nửa sau thế kỷ XX đã góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình pháp điển hóa thế hệ quyền này trong pháp luật quốc gia và quốc tế. Văn kiện pháp lý quốc tế tiêu biểu nhất đề cập đến thế hệ quyền này là Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội, 1966 (sau đây viết tắt là ICESCR).
Thế hệ thứ ba, các quyền tập thể:
Thế hệ quyền này bao gồm các quyền tập thể, tiêu biểu như quyền tự quyết dân tộc (right to self-determination); quyền phát triển (right to development); quyền với các nguồn tài nguyên thiên nhiên (right to natural resources); quyền được sống trong hoà bình (right to peace); quyền được sống trong môi trường trong lành (right to a healthy environment)... Danh mục các quyền thuộc thế hệ quyền này vẫn đang được bổ sung, trong đó những quyền được đề cập gần đây bao gồm: quyền được thông tin và các quyền về thông tin (right to communicate; communication rights); quyền được hưởng thụ các giá trị văn hóa (right to participation in cultural heritage). Những văn kiện pháp lý quốc tế tiêu biểu hiện nay đề cập đến thế hệ quyền này là Tuyên ngôn về trao trả độc lập cho các quốc gia và dân tộc thuộc địa, 1960; Hai công ước cơ bản về nhân quyền năm 1966 là ICCPR (Điều 1), ICESCR (Điều 1); Tuyên bố về quyền của các dân tộc được sống trong hoà bình, 1984; Tuyên bố về quyền phát triển, 1986...
Ngoại trừ một số quyền như quyền tự quyết dân tộc, nhiều quyền trong thế hệ thứ ba chưa được pháp điển hóa bằng các điều ước quốc tế, mà chủ yếu mới chỉ được đề cập trong các tuyên bố, tuyên ngôn (các văn kiện luật niêm - soft law). Vì vậy, tính pháp lý và tính hiện thực của hầu hết các quyền trong thế hệ này hiện vẫn đang là chủ đề gây tranh cãi.
2. Nhân quyền có thể được phân loại như thế nào?
Dựa trên những tiêu chí khác nhau, có thể chia quyền con người thành những nhóm/dạng khác nhau. Cụ thể, xét lĩnh vực điều chỉnh, có thể phân thành nhóm quyền chính trị, dân sự và nhóm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Xét chủ thể của quyền, có thể phân thành các quyền cá nhân và các quyền của nhóm. Xét mức độ pháp điển hóa, có thể phân thành các quyền cụ thể và quyền hàm chứa. Xét phương thức bảo đảm, có thể phân thành các quyền chủ động và quyền bị động. Xét điều kiện thực thi, có thể phân thành các quyền có thể bị hạn chế và các quyền không bị hạn chế (cũng trên khía cạnh này, còn có thể phân thành các quyền có thể bị tạm đình chỉ áp dụng và các quyền không thể bị đình chỉ áp dụng trong mọi hoàn cảnh) ...
Tuy nhiên, cần chú ý là mọi sự phân loại đều không làm mất đi những đặc trưng về tính phổ biến, tính không thể chuyển nhượng, tính không thể phân chia và tính liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau của nhân quyền.
3. Quyền cá nhân và quyền tập thể có gì khác nhau không?
Do chủ thể chính của quyền con người là các cá nhân nên khi nói đến quyền con người về cơ bản là nói đến các quyền cá nhân (individual rights). Tuy nhiên, ngoài các cá nhân, chủ thể của quyền con người còn bao gồm các nhóm xã hội nhất định, vì thế, bên cạnh các quyền cá nhân, người ta còn đề cập đến các quyền tập thể (group rights hay collective rights).
Nếu như quyền cá nhân có thể hiểu là các quyền thuộc vê mỗi cá nhẫn, bất kể họ có hay không là thành viên của bất kỳ một nhóm xã hội nào và việc hưởng thụ các quyền cơ bản là dựa trên cơ sở cá nhân thì ngược lại, quyền tập thể có thể hiểu là những quyền đặc thù chung của một tập thể hay một nhóm xã hội nhất định, mà để được hưởng thụ các quyền này cần phải là thành viên của nhóm, và trong nhiêu trường hợp phải được thực hiện với tính chất tập thể.
Cụ thể, một số quyền tập thể đôi khi cần phải thực hiện cùng với các thành viên khác của nhóm (ví dụ như quyền tự do hội họp, lập hội...) thì mới mang ý nghĩa đích thực. Tuy nhiên, không phải tất cả các quyền của nhóm đều đòi hỏi phải thực hiện bằng cách thức tập thể, mà có thể được thực hiện cả với tư cách tập thể hoặc cá nhân. Đơn cử, một thành viên của một dân tộc thiểu số có thể cùng với cộng đồng mình yêu cầu được bảo đảm các quyền về sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trên các phương tiện truyền thông, nhưng đồng thời có thể một mình thực hiện quyền chung của dân tộc thiểu số là được nói tiếng nói hay mặc trang phục của dân tộc đó ...
Khái niệm quyền của nhóm còn được mở rộng để chỉ các quyền của một dân tộc (people's rights) cụ thể như quyền tự quyết dân tộc, quyền được bảo tồn tài nguyên và đất đai truyền thống của các dân tộc bản địa ...
Nhìn chung, các quyền cá nhân và quyền tập thể hỗ trợ, bổ sung cho nhau, song cũng có trường hợp mâu thuẫn nhau. Đơn cử, một cá nhân là thành viên của một công đoàn có thể mong muốn ký kết hợp đồng lao động dưới danh nghĩa cá nhân thay cho việc cùng với các thành viên khác của công đoàn tiến hành đàm phán với người sử dụng lao động để ký kết một thỏa ước tập thể... Trong những trường hợp như vậy, việc theo đuổi các quyền cá nhân có thể làm tổn hại đến quyền tập thể và ngược lại. Điều này cho thấy sự cần thiết và tầm quan trọng của việc nghiên cứu tìm ra biện pháp giải quyết các xung đột có thể xảy ra, làm hài hoà các quyền tập thể và quyền cá nhân.
4. Đối tượng nào là chủ thể của quyền con người? Đối tượng nào là chủ thể có trách nhiệm bảo đảm quyền con người?
Tất cả các chủ thể trong xã hội (thể nhân, pháp nhân), ít hoặc nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, lúc này hay lúc khác, đều tham gia các quan hệ về nhân quyền. Các chủ thể này có thể phân thành hai dạng chính: chủ thể có quyền và chủ thể có nghĩa vụ. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng sự phân loại này chi có tính tương đối, vì nếu coi nhân quyền là tập hợp của các quyền cá nhân (individual rights) và quyền tập thể (collective/group rights) thì không có chủ thể nào trong xã hội chỉ có quyền mà không có nghĩa vụ và ngược lại. Nói cách khác, xét tổng quát, mọi thể nhân và pháp nhân trong xã hội đều đóng vai trò kép: vừa là chủ thể của quyền, vừa là chủ thể của nghĩa vụ trong các quan hệ nhân quyền.
Nhận thức phổ biến trên thế giới cho rằng, chủ thể cơ bản của quyền con người (right-holders) là các cá nhân (individuals). Ngoài ra, trong một số trường hợp, chủ thể của quyền con người còn là các nhóm người (groups), ví dụ như các nhóm thiểu số về chủng tộc, dân tộc, tôn giáo,... và cả các dân tộc (peoples).
Xét về nghĩa vụ, nhận thức phổ biến cho rằng, chủ thể cơ bản có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người (duty-bearers) là các nhà nước (states) mà cụ thể là các chính phủ, các cơ quan nhà nước khác cùng các viên chức hay những người làm việc cho các cơ quan nhà nước (được gọi chung là các chủ thể nhà nước - State actors). Về vấn đề này, các nhà nước đóng vai trò kép, vừa là thủ phạm chính của những vi phạm nhân quyền, song đồng thời cũng được coi là chủ thể có vai trò chính trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người.
Ngoài các nhà nước, Nhận thức phổ biến của cộng đồng quốc tế cũng cho rằng, các tổ chức, thể chế quốc tế (international bodies), các đảng phái chính trị (political parties), các doanh nghiệp (companies), các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế (international, national non-govemmental organizations), các nhóm chính thức hoặc không chính thức (formal, informal groups), các cộng đồng (communities), các gia đình (families), các bậc cha mẹ (parents) và các cá nhân (individuals), tùy theo vị thế của mình, cũng có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ và góp phần thúc đẩy các quyền con người (những chủ thể này được gọi chưng là các chủ thể phi nhà nước - non-state actors). Theo nhận thức phổ biển, các chủ thể phi nhà nước cũng có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người nhưng đồng thời cũng là thủ phạm của những vi phạm về nhân quyền trong những hoàn cảnh nhất định (tuy không bị coi là thủ phạm chính). Ví dụ, các bậc cha mẹ đôi khi vi phạm quyền trẻ em (của con cái họ), các cộng đồng đôi khi vi phạm quyền của một cá nhân hay một nhóm thành viên nhất định (ví dụ, luật ném đá đến chết những phụ nữ và nam giới bị coi là ngoại tình ở một số cộng đồng Hồi giáo...); một số công ty, kể cả công ty đa quốc gia hủy hoại môi trường sống của người dân ở một khu vực nào đó vì lợi nhuận...
5. Bảo vệ quyên con người là quyền hay trách nhiệm?
Bảo vệ nhân quyền vừa là quyền vừa là trách nhiệm của mọi cá nhân. Như đã đề cập ở trên, nhà nước là chủ thể có trách nhiệm chính trong việc thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền, tuy nhiên, các chủ thể khác trong xã hội cũng có trách nhiệm này.
Thuật ngữ "người bảo vệ nhân quyền" (human rights defender) được dùng để chỉ những cá nhân, hoạt động một mình hay cùng vói những người khác, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người. Họ bảo vệ và thúc đẩy các quyền khác nhau, của các nhóm khác nhau, ở phạm vi quốc gia, khu vực hoặc quốc tế thông qua rất nhiều loại hoạt động đa dạng như nghiên cứu, giảng dạy, phổ biến, tuyên truyền, vận động, thu thập thông tin về các vi phạm nhân quyền, hỗ trợ nạn nhân. Vì chủ thể vi phạm quyền thường là các cơ quan, công chức nhà nước hoặc các chủ thể có quyền lực trong xã hội nên ở nhiều quốc gia những người bảo vệ nhân quyền luôn phải đối diện nhiều khó khăn và rủi ro trong công việc cao cả của mình. Họ thường bị quy kết, vu khống, hạ nhục, đe doạ... thậm chí nhiều người trong số họ bị bắt bớ, tra tấn, bỏ tù hay giết hại...
Việc Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua "Tuyên ngôn vê quyến và nghĩa vụ của các cá nhân, nhóm và tố chức xã hội trong việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người và tự do cơ bản được thừa nhận rộng rãi" (được gọi tắt là "Tuyên ngôn về những người bảo vệ nhân quyền") vào ngày 9 tháng 12 năm 1998 là một bước tiến lớn trong việc bảo vệ những người bảo vệ nhân quyền. Đây là văn kiện đầu tiên của Liên Hợp Quốc thừa nhận vai trò quan trọng, tính chính đáng và sự cần thiết phải bảo vệ tốt hơn những người bảo vệ nhân quyền.
Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900 6162 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Luật Minh Khuê- Sưu tầm & biên tập