Mục lục bài viết
1. Tư pháp là gì?
Tư pháp theo thuyết tam quyền phân lập là một trong ba quyền của quyền lực nhà nước bao gồm: lập pháp (làm pháp luật và ban hành pháp luật); hành pháp (thi hành pháp luật) và tư pháp (giữ gìn, bảo vệ pháp luật và xử lý các việc vi phạm pháp luật). Theo quan điểm của nhà nước Việt Nam thì tư pháp chỉ thực hiện công việc tổ chức giữ gìn và bảo vệ pháp luật.
Tư pháp còn là từ chung chỉ các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử hoặc là tên các cơ quan làm các nhiệm vụ về hành chính tư pháp. Ví dụ: Bộ tư pháp hay Sở tư pháp…
2. Quyền tư pháp là gì?
Quyền tư pháp là một dạng quyền lực nhà nước và được hình thành khi quyền lực nhà nước phân chia thành ba quyền độc lập với nhau, bổ trợ cho nhau và thực hiện kiểm soát lẫn nhau. Cụ thể là các quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Ở Việt Nam, hiện nay chúng ta không thừa nhận và không tổ chức Nhà nước theo nguyên lý tam quyền phân lập nhưng mà đặc trưng là các quyền đối trọng và kiểm soát lẫn nhau. Pháp luật và thực tiễn của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay đã tiếp thu nhiều yếu tố hợp lý của thuyết tam quyền. Đây là cách gọi tên về các quyền và các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp được coi trọng tính độc lập của hoạt động tư pháp, trong đó xác định Toà án là mắt xích quan trọng tâm của hệ thống tư pháp cùng với cách phân biệt ngày càng rành mạch giữa các quyền này và là phương hướng về tăng cường kiểm soát quyền lực nói chung và kiểm soát giữa các quyền lập pháp, hành pháp hay tư pháp nói riêng. Đây là một trong ba trụ cột của quyền lực nhà nước cụ thể phân biệt theo chức năng, quyền tư pháp sẽ không đồng dạng với hai loại quyền còn lại và luôn có giữ một vị thế độc lập, một nhánh về quyền lực quan trọng trong các thể chế nhà nước hiện đại, đặc biệt là trong nhà nước pháp quyền hiện nay.
3. Khái niệm cải cách tư pháp
Cải cách tư pháp là một quá trình đổi mới tiếp nối liên tục trên tất cả các phương diện cơ bản: phương diện tư duy lý luận, phương diện tư duy thực tiễn. Để tiến hành cải cách tư pháp có hiệu quả, chất lượng, trước hết, cần giải quyết một loạt vấn đề mang tính nhận thức lý luận và thực tiễn quan trọng. Chúng tôi cho rằng, cần phải nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề đó để làm nền tảng cho sự nghiệp cải cách tư pháp có hiệu quả, chất lượng.
Cải cách tư pháp là một phạm trù chính trị - pháp lý. Cải cách tư pháp là sự cải tạo, sự sửa đổi, sự đổi mới một số bộ phận tư pháp không còn phù hợp để đáp ứng các yêu cầu phát triển khách quan của tư pháp. Cải cách tư pháp tạo ra những thay đổi mang tính chỉnh thể, hệ thống về tư pháp, bao quát cả tư duy và hành động trong lĩnh vực tư pháp. Cải cách tư pháp là một bộ phận cấu thành của đổi mới cơ chế quyền lực nhà nước, của đổi mới đất nước. Cải cách tư pháp là một quá trình biến đổi toàn diện, sâu sắc, triệt để các bộ phận tư pháp nhất định, được tiến hành theo một lộ trình nhất định. Cải cách tư pháp chịu sự tác động của những nhân tố nhất định, có quy luật phát triển riêng của mình. Cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam là tất yếu, cần thiết, cấp bách.
5. Nội dung cải cách tư pháp theo chủ trương của Đảng
Cải cách tư pháp được Văn kiện lần thứ XIII của Đảng xác định ở các nội dung sau:
Thứ nhất, Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiến hành tổng kết hoạt động tư pháp gắn liền với việc tổng kết các hoạt động xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Thông qua tổng kết thực tiễn, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII khẳng định thành tựu: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Đặc biệt, Văn kiện nhấn mạnh: “Cải cách tư pháp trên một số lĩnh vực có bước đột phá. Tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn, chất lượng hoạt động có tiến bộ, bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức và cá nhân; tôn trọng và bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân”. Như vậy, Đảng đã khẳng định một thành tựu quan trọng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trên phương diện cải cách tư pháp, đó là tính đột phá tạo hiệu quả, hiệu lực và chất lượng của các cơ quan tư pháp trong hoạt động xét xử, công tố, điều tra, thi hành án và bổ trợ tư pháp.
Thứ hai, Văn kiện Đại hội XIII đã chỉ rõ: “Cải cách tư pháp chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước”, đồng thời, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết lần thứ XII chủ yếu là nguyên nhân chủ quan: Do “nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên về một số chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước còn chưa sâu sắc, thiếu thống nhất, do vậy, một số công việc triển khai thiếu kiên quyết, lúng túng”. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến một số chủ trương cải cách tư pháp của Đảng được nêu trong các văn kiện, nghị quyết chưa được triển khai trong thực tiễn. Việc chỉ rõ hạn chế, xác định nguyên nhân của hạn chế, tồn tại trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền trong đó có cải cách tư pháp tại Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng chính là những đúc kết từ thực tiễn xây dựng, đổi mới và hoàn thiện bộ máy nhà nước nói chung và cơ quan tư pháp nói riêng, hướng đến xây dựng nền tư pháp của Nhà nước pháp quyền trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.
Thứ ba, bên cạnh việc tổng kết thực tiễn, Đại hội lần thứ XIII của Đảng đưa ra bài học kinh nghiệm, trong đó xác định bài học trong quá trình lãnh đạo việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, đẩy mạnh cải cách tư pháp như sau: “Thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực” và “trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”… Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu… Củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN”. Các kinh nghiệm này được Đảng rút ra qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX, X, XI, XII của Đảng nên vô cùng giá trị do đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn nói chung và thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo triển khai các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, và được chứng minh bằng kết quả của công tác phòng, chống tội phạm, phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ quyền con người và công lý ở Việt Nam thời gian qua. Các bài học kinh nghiệm rút ra cho thấy, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp luôn luôn nhất quán và hướng đến yêu cầu “các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời, phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế XHCN, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm” được nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Thứ tư, Đảng khẳng định cần “xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước”. Điểm mới trong Văn kiện Đại hội XIII so với Đại hội XII là việc nhấn mạnh yếu tố “phân công rành mạch” trong nguyên tắc đặc trưng của Nhà nước pháp quyền để khẳng định tính minh bạch khi vận hành của các quyền lập pháp, hành pháp và đặc biệt là quyền tư pháp. Chính vì lẽ đó, Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đưa ra các giải pháp về đẩy mạnh cải cách tư pháp, đó là: “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Nghiên cứu ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp”. Cụ thể: “Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp; giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật định; phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động của tội phạm và vi phạm pháp luật”(11).
Thứ năm, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII xác định nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Trong đó, đã chỉ rõ: “Chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp”. Muốn vậy, “Các tổ chức của Đảng và đảng viên, nhất là các tổ chức, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước vừa phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, vừa phải nêu cao vai trò tiên phong trong thực hiện chủ trương, đường lối, các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”(12). Điều này cho thấy, các thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành viên và các chức danh bổ trợ tư pháp khác khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo luật định thì vừa phải hoạt động đảm bảo tuân thủ Hiến Pháp, pháp luật để giữ uy tín cho cơ quan, tổ chức mình và vừa phải phát huy vai trò của đảng viên.
Thứ sáu, mục tiêu cải cách tư pháp được xác định cụ thể, rõ ràng trong tổng thể của giải pháp tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030. Đó là: “Xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức cá nhân”. Đồng thời, Đảng khẳng định phương hướng cụ thể tập trung vào các nội dung chủ yếu như: “Tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật của người dân và doanh nghiệp. Phát triển hoạt động dịch vụ pháp lý và các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án. Nâng cao hiệu quả và rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp, thi hành án trong lĩnh vực dân sự, hành chính, đầu tư, kinh doanh, thương mại và bảo vệ người tiêu dùng” và “Không hình sự hóa các mối quan hệ kinh tế, hành chính, dân sự. Phát huy đúng vai trò giám sát, phản biện xã hội các hình thức tự quản của cộng đồng, các phương thức hòa giải cấp cơ sở”. Bên cạnh đó, để mục tiêu, nhiệm vụ về cải cách tư pháp có hiệu quả, Đảng cũng đưa ra phương hướng chung về phát triển đội ngũ cán bộ, công chức trong đó có đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp như sau: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo dựa trên cơ chế cạnh tranh về tuyển dụng, chế độ đãi ngộ và đề bạt; có phẩm chất đạo đức tốt và bản lĩnh chính trị vững vàng”.
5. Giải pháp tăng cường cải cách tư pháp
Thứ nhất, cần quán triệt, nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và đề cao sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp ở các cấp ủy đảng, các cơ quan tư pháp từ Trung ương đến địa phương Tăng cường cải cách tư pháp cần được tiến hành trên cơ sở kiện toàn bộ máy của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương và các Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp của các cấp ủy, tổ chức đảng có liên quan ở Trung ương và địa phương.
Thứ hai, quá trình triển khai các quan điểm về cải cách tư pháp trong Văn kiện Đại hội Đảng cần quán triệt các quan điểm chính như sau:
- Cần đổi mới nhận thức lý luận và thực tiễn về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền XHCN. Đồng thời, cần xác định rõ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan bổ trợ tư pháp, luật sư, công chứng trong việc thực hiện quyền tư pháp.
- Cụ thể hóa các tiêu chí “chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, văn minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”, đồng thời, làm rõ nội hàm của các tiêu chí “trong sạch, hiệu lực, hiệu quả, dân chủ, nghiêm minh, thống nhất, đồng bộ, khả thi, ổn định” làm cơ sở cho việc rà soát, đánh giá chức năng, nhiệm vụ của các thiết chế tư pháp, phát hiện những bất cập, mâu thuẫn, chồng chéo để sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và các quy định pháp luật có liên quan nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan tư pháp thực hiện có hiệu quả chức năng xét xử, công tố, điều tra, thi hành án và bổ trợ tư pháp.
- Hoàn thiện pháp luật tố tụng tư pháp và cơ chế bảo đảm về dịch vụ pháp lý, các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án như thương lượng, hòa giải, trọng tài và có biện pháp pháp lý, biện pháp kinh tế phù hợp để người dân và doanh nghiệp nâng cao năng lực tiếp cận pháp luật và công lý, rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp tại Tòa án và cả trong quá trình thi hành án.
Thứ ba, thực hiện tốt trọng tâm cải cách tư pháp đã được Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII xác định về tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam trên cơ sở hoàn thiện tổ chức và hoạt động các cơ quan tư pháp. Cụ thể như sau: Đối với Tòa án nhân dân, cần tiếp tục cụ thể hóa đầy đủ các nguyên tắc hiến định về chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân và hoạt động xét xử. Tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử; Phân định rành mạch thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp; bảo đảm nguyên tắc độc lập, nguyên tắc suy đoán vô tội, bảo đảm tranh tụng trong xét xử, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, của đương sự… Nghiên cứu xây dựng cơ chế thực hiện chức năng quản lý về nhân sự, cơ sở vật chất của Tòa án; giám sát việc thực thi công vụ của Thẩm phán và khen thưởng, kỷ luật đối với Thẩm phán.
Đối với Viện kiểm sát nhân dân, tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra.
Đối với Cơ quan điều tra cần tiếp tục kiện toàn tổ chức cơ quan điều tra, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Cơ quan điều tra.
Đối với các chế định luật sư, bổ trợ tư pháp, cần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực luật sư, công chứng, giám định tư pháp, trợ giúp pháp lý.
Thứ tư, huy động các nguồn lực cần và đủ cho hoạt động của các cơ quan tư pháp. Trước hết tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tư pháp quốc gia thông qua việc nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo, bồi dưỡng… Tiếp tục đổi mới cơ chế thu hút, tuyển chọn người có đủ tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh nghề nghiệp, chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm, kiến thức xã hội, khả năng ngoại ngữ vào nguồn thi tuyển, bổ nhiệm các chức danh tư pháp. Xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện nghiêm quy tắc đạo đức nghề nghiệp các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách, đầu tư kinh phí cho việc xây dựng trụ sở Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án hình sự; đồng thời, ứng dụng công nghệ thông tin cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử; đổi mới cơ chế phân bổ, sử dụng, quyết toán ngân sách Trung ương do Quốc hội phân bổ và cơ chế phân bổ, sử dụng, quyết toán ngân sách do địa phương bảo đảm, phù hợp, kịp thời các đặc thù của hoạt động tư pháp.