1. Con một có được nhận tài sản khi cha mẹ mất không?

Trước hết phải hiểu theo quy định của pháp luật hiện hành và đặc biệt trong lĩnh vực thừa kế thì Bộ luật Dân sự năm 2015 không có quy định về việc "con một" trong gia đình có được nhận toàn bộ di sản mà khi cha mẹ mất để lại. Việc con một có được nhận hay không phụ thuộc vào từng trường hợp theo quy định của pháp luật.

Thừa kế theo quy định thì mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc pháp luật. Tức là việc con một có được nhận tài sản khi cha mẹ mất hay không phụ thuộc vào họ có thuộc các trường hợp được quyền hưởng di sản theo di chúc (thừa kế theo di chúc) hoặc pháp luật (thừa kế theo pháp luật). Ngoài ra cũng cần phải lưu ý về việc họ có quyền từ chối nhận di sản và nếu muốn nhận di sản thì phải không thuộc các trường hợp không có quyền hưởng di sản.

Đối với từ chối nhận di sản thì người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. Còn đối với việc không được quyền hưởng di sản thì người con một đó phải không thuộc các trường hợp sau:

- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó.

- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản.

- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng.

- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

Tuy nhiên nếu người con vi phạm một trong các trường hợp trên nhưng nếu cha mẹ đã biết hành vi đó mà vẫn viết di chúc để lại cho họ thì người con một đó dù vi phạm nhưng vẫn được hưởng di sản theo di chúc của cha mẹ.

Như vậy, để trả lời câu hỏi con một có được nhận di sản khi cha mẹ mất hay không thì phải phụ thuộc vào hình thức, điều kiện cụ thể của người con đó nếu đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật thì có thể được hưởng di sản của ba mẹ khi ba mẹ không may qua đời. 

2. Cha mẹ chết không lập di chúc thì con một trong nhà có được quyền quyết định tài sản đó không?

Như đã phân tích ở trên thì để xác định con một trong nhà có được quyền quyết định tài sản khi cha mẹ chết mà không để lại di chúc hay không thì người con một đó phải đáp ứng các điều kiện.

Đối với trường hợp cha mẹ chết không lập di chúc tức là trường hợp không có di chúc mà theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 650 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì đây là một trong các trường hợp khi cha mẹ mất sẽ áp dụng chia thừa kế theo pháp luật. 

Thì đối với trường hợp chia thừa kế theo pháp luật thì theo nguyên tắc sẽ chia cho những người thừa kế trong các hàng thừa kế theo quy định tại khoản 1 Điều 651 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo quy định này thì đối với người thừa kế theo pháp luật sẽ được phân ra làm 3 hàng thừa kế theo thứ tự hàng thừa kế thứ nhất, hàng thừa kế thứ hai và hàng thừa kế thứ ba. Đối với hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Tức là thứ tự ưu tiên giảm dần từ hàng thừa kế thứ nhất đến hàng thừa kế thứ hai và cuối cùng là hàng thừa kế thứ ba.

Quay lại trường hợp ban đầu thì nếu trường hợp gia đình con một mà cha mẹ mất không để lại di chúc thì người con này được xác định nằm trong hàng thừa kế thứ nhất của cha mẹ họ. Trường hợp là con một trong nhà thì chỉ xác định được họ không có hoặc không còn anh chị em ruột chứ chưa thể khẳng định việc không còn ai trong hàng thừa kế thứ nhất của họ. Vì ngoài anh chị em ruột trong nhà nằm trong hàng thừa kế thứ nhất còn có cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi của người chết cũng nằm trong hàng thừa kế thứ nhất này. Nếu những người nằm trong hàng thừa kế thứ nhất của họ không còn ai do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản thì người con một duy nhất trong nhà đó mới được xác định là người nằm trong hàng thừa kế thứ nhất duy nhất của cha mẹ họ. Khi đó họ đi làm thủ tục để phân chia di sản thừa kế theo pháp luật thì mới được ghi nhận và quyết định tài sản mà cha mẹ họ để lại.

Còn nếu ngoài họ ra còn có những người khác mà họ không từ chối nhận di sản cũng không thuộc các trường hợp không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản thì họ vẫn được phần quyền lợi trong phần di sản mà người chết để lại và lúc đó người con một duy nhất trong nhà sẽ không có quyền quyết định tài sản mà cha mẹ của họ để lại không có di chúc.

Như vậy: Trong trường hợp cha mẹ chết mà không lập di chúc thì tài sản của cha mẹ để lại sẽ được phân chia theo pháp luật. Người con duy nhất trong nhà không được quyền quyết định số tài sản đó nếu thuộc các trường hợp như chúng tôi đã phân tích ở trên.

3. Con riêng duy nhất trong nhà có được hưởng thừa kế hay không?

Để trả lời câu hỏi trên chúng ta phải phân tích thành các trường hợp cụ thể của người con riêng duy nhất này như sau:

- Trường hợp thứ 1: Người con riêng duy nhất trong nhà đó là người con riêng của người chết và người chết không để lại di chúc. Trong trường hợp này thì người con riêng sẽ được nhận di sản từ người chết vì người chết không để lại di chúc sẽ chia thừa kế theo pháp luật. Mà người con riêng này nằm trong hàng thừa kế thứ nhất của người chết nên sẽ được nhận phần di sản mà người chết để lại. Nếu người chết để lại di chúc thì phải xem xét tính hợp pháp của di chúc, nếu di chúc hợp pháp thì chia theo di chúc nhưng cũng cần phải lưu ý nếu di chúc không có tên của người con riêng này mà họ thuộc một trong các trường hợp người nhận thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc thì họ vẫn được hưởng ít nhất là 2/3 của một suất thừa kế mà những người còn lại được nhận.

- Trường hợp thứ 2: Nếu người con riêng duy nhất trong nhà đó là người con riêng của vợ hoặc chồng (không phải con riêng của người chết). Trong trường hợp này người con riêng đó muốn được nhận di sản từ người chết thì phải được người chết đồng ý và thể hiện mong muốn đó thông qua di chúc hợp pháp. Nếu không người con riêng đó sẽ không được nhận di sản của người chết vì họ không thuộc hàng thừa kế của người chết khi chia theo pháp luật nếu không có di chúc. Do đó nếu không có di chúc thể hiện để lại di sản cho người con riêng này thì họ sẽ không được nhận phần di sản mà người chết để lại.

- Trường hợp thứ 3: Người con riêng duy nhất này là con riêng của người chết nhưng người chết để lại di chúc không cho người con riêng đó. Nếu người con riêng đó chưa thành niên hoặc đã thành niên mà không có khả năng lao động thì khi người chết không để lại di chúc cho họ thì họ vẫn sẽ được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật (trường hợp để lại di chúc nhưng cho hưởng ít hơn cũng được áp dụng tương tự). Còn nếu người con riêng đó không thuộc các trường hợp trên thì sẽ không được nhận phần di sản của người chết mà sẽ chia theo ý chí của người chết theo di chúc.

Ngoài nội dung tư vấn trên quý khách hàng có thể tham khảo tại bài viết có nội dung tương tự tại địa chỉ: Quyền thừa kế sau khi cha, mẹ mất theo pháp luật như thế nào?

Trên đây là bài tư vấn của chúng tôi, mọi trao đổi quý khách hàng xin vui lòng gửi về số Hotline tel:19006162 hoặc địa chỉ email lienhe@luatminhkhue.vn để được trao đổi. Trân trọng!