Mục lục bài viết
1. Thủ tục giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
Chuyên đề này nhằm cung cấp cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên và cán bộ, nhân dân một số hiểu biết cơ bản về thực trạng tranh chấp đất đai, khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai theo quy định của pháp luật hiện hành, qua đó tạo điều kiện tốt hơn cho việc tuyên truyền, phổ biến và vận động cán bộ, nhân dân chấp hành pháp luật về lĩnh vực này.
>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi: 1900.6162
Phần thứ nhất
TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI, KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP, KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI TRONG THỜI GIAN GIAN QUA
I. TRANH CHẤP, KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Tình hình tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
Từ nhiều năm nay, tình hình khiếu nại, tố cáo luôn là vấn đề bức bách được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội quan tâm. Đảng và Nhà nước đã có nhiều Chỉ thị, Nghị quyết về vấn đề này. Các văn bản đó đã và đang được triển khai thực hiện, có tác động tích cực đến tình hình khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Nhờ vậy, nhiều “điểm nóng”, nhiều vụ việc phức tạp đã được giải quyết, góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, thời gian gần đây tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân diễn ra không bình thường, số lượng gia tăng, tính chất phức tạp, trong đó khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai chiếm số lượng lớn, khoảng 80% so với các khiếu nại, tố cáo trong cả nước, có những tỉnh, thành phố riêng về đất đai chiếm số lượng rất lớn như: thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng, Hà Tây, Thái Bình, Cần Thơ, Hải Dương, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An, Bến Tre, Đồng Tháp, An Giang, Sóc Trăng...
Tình hình khiếu nại, tố cáo, tranh chấp của công dân trong lĩnh vực đất đai diễn ra gay gắt, phức tạp ở hầu hết các địa phương trong cả nước, nhiều nơi đã trở thành điểm nóng. Số lượng đơn vượt cấp gửi đến các cơ quan ở Trung ương nhiều, nội dung thể hiện tính bức xúc gay gắt, không chấp nhận với cách giải quyết của chính quyền địa phương. Số lượng công dân đến khiếu nại trực tiếp tại phòng tiếp công dân của các địa phương, các cơ quan ở Trung ương hàng năm cao. Nhiều vụ việc công dân tụ tập thành đoàn, đi xe, căng cờ, biểu ngữ... kéo đến các cơ quan chính quyền, Đảng,… nhằm gây áp lực đòi được giải quyết quyền lợi theo yêu cầu. Số lượng công dân tập trung đông chủ yếu ở các kỳ họp Hội đồng nhân dân, Quốc hội, Đại hội đảng, có nơi công dân tập trung huy động thương binh, phụ nữ, người già, trẻ em bao vây trụ sở chính quyền xã, huyện, tỉnh, doanh nghiệp gây mất trật tự, an toàn xã hội.
Thời gian gần đây, có rất nhiều vụ việc khiếu nại liên quan đến đất đai. Nhiều trường hợp khiếu nại có liên quan đến việc Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội, như đòi được bồi thường đất ở, nâng giá bồi thường, tăng tiền hỗ trợ, bố trí tái định cư, giải quyết việc làm; đòi lại đất cũ, tranh chấp đất đai, nhà ở. Ngoài ra, có một số khiếu nại liên quan đến việc thực hiện chính sách xã hội, kỷ luật của cán bộ, công chức... Về nội dung tố cáo, chủ yếu là tố cáo cán bộ, công chức làm sai chính sách, tiêu cực, tham nhũng trong quản lý đất đai, tài chính, đầu tư, xây dựng cơ bản, thực hiện chính sách xã hội, cổ phần hóa doanh nghiệp; thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, bao che người bị tố cáo, không xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật.
Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, hàng năm Bộ nhận được gần 10.000 lượt đơn tranh chấp, khiếu nại, tố cáo thuộc lĩnh vực tài nguyên và môi trường của công dân 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó đơn thuộc lĩnh vực đất đai chiếm 98,6% tổng số đơn. Các địa phương có nhiều đơn gửi đến Bộ Tài nguyên và Môi trường là thành phố Hồ Chí Minh, An Giang, Cần Thơ, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An, Đồng Tháp, Bến Tre, Bình Thuận, Đồng Nai, Kiên Giang và Tây Ninh (bình quân mỗi địa phương có gần 500 lượt đơn thư/năm).
Tình hình trên nếu không được xử lý kịp thời sẽ rất phức tạp, gây tâm lý hoang mang, thiếu tin tưởng vào chính quyền, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và lợi ích quốc gia.
* Tình hình đơn thư tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai của công dân gửi đến Bộ Tài nguyên và Môi trường từ năm 2003 đến năm 2008:
- Tổng số đơn Bộ nhận được từ năm 2003-2008 là 47.652 lượt (bình quân gần 8.000 lượt/năm và riêng năm 2008 là 7.005), đơn thư Bộ nhận được có ở cả 63 tỉnh, thành phố. Kết quả phân tích đơn thư như sau:
+ Đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ: 985 vụ việc (chiếm tỷ lệ 2,1% số đơn thư Bộ nhận được).
+ Đơn do Thủ tướng Chính phủ giao: 139 vụ việc (chiếm tỷ lệ 0,3%).
+ Đơn đã có quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: 7.551 vụ việc (chiếm tỷ lệ 15,8%).
+ Đơn tố cáo: 1.125 vụ việc (chiếm tỷ lệ 2,4%).
+ Đơn vượt cấp: 13.812 vụ việc (chiếm tỷ lệ 29%).
+ Đơn trùng và đơn không đủ điều kiện: 24.088 lượt đơn (chiếm tỷ lệ 50,4%).
- Các vụ việc thuộc thẩm quyền của Bộ tập trung nhiều vào các năm 2003 và 2004 với tổng số 682 vụ (chiếm 69,2% số vụ việc thuộc thẩm quyền), do Luật Đất đai chưa có hiệu lực nên các vụ việc liên quan đến công tác thu hồi đất và bồi thường vẫn thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ. Sau khi Luật Đất đai cũ từ năm 2003 có hiệu lực, thẩm quyền của Bộ tập trung chủ yếu vào công tác giải quyết các vụ việc tranh chấp đất đai có yếu tố tổ chức.
* Trong 6 tháng đầu năm 2009, các đơn vị trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường đã nhận được tổng số đơn khiếu nại, tố cáo thuộc lĩnh vực đất đai là: 3.470 lượt đơn.
Trong số lượng đơn, thư nhận được số lượng đơn thư về đất đai vẫn chiếm phần lớn với 3.470 đơn (chiếm 98,6%) trong đó có 1.747 đơn trùng, không đủ điều kiện; 1.723 đơn còn lại chiếm 49,65% liên quan đến những vấn đề sau: Tranh chấp đất giữa cá nhân và cá nhân: 280 đơn, chiếm 16,25%; Khiếu nại về giá bồi thường khi thu hồi đất: 508 đơn, chiếm 29,48%; Khiếu nại cấp, thu hồi Giấy chứng nhận: 214 đơn, chiếm 12,42%.
Trong tổng số đơn, thư đã nhận có 06 đơn do Thủ tướng giao và 05 đơn thuộc thẩm quyền Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Đối với 06 vụ việc được Thủ tướng Chính phủ giao đã xử lý như sau: 01 vụ việc đã thẩm tra và làm việc với Ủy ban nhân dân tỉnh để thống nhất giải quyết và báo cáo Thủ tướng Chính phủ; 04 vụ việc đang thẩm tra; 01 vụ việc mới tiếp nhận.
Đối với 05 đơn thuộc thẩm quyền: 03 đơn đã có văn bản thống nhất với Quyết định giải quyết của tỉnh; 02 đơn đang thẩm tra, xác minh. Còn lại các đơn không thuộc thẩm quyền đều đã được chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền để giải quyết.
Nhìn chung trong 6 tháng đầu năm 2009, số lượng đơn thư Bộ nhận được giảm khá nhiều so với cùng kỳ 6 tháng đầu năm 2008. Tuy nhiên, tình trạng đơn thư tập thể và khiếu kiện vượt cấp vẫn còn nhiều gây khó khăn và mất nhiều thời gian cho công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của Bộ.
* Tình hình khiếu nại đông người trong lĩnh vực đất đai trong năm 2008 và 6 tháng đầu năm 2009
Bộ Tài nguyên và Môi trường nhận được 84 đơn khiếu nại đông người (giảm 24% so với năm 2006 và bằng cả năm 2007), trong đó các tỉnh, thành phố phía Nam có nhiều vụ việc nhất chiếm 85,6% tổng số vụ việc. Một số địa phương phía Nam có đơn thư tập thể là: Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Cần Thơ, Long An, Đồng Nai, Cà Mau, An Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Bà Rịa - Vũng Tàu và Kiên Giang.
Một số vụ việc khiếu nại nổi cộm, mang tính bức xúc mà Bộ Tài nguyên và Môi trường nhận được trong thời gian qua như: Việc một số hộ dân đồng bào dân tộc thiểu số Khmer ở 2 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên (tỉnh An Giang) đòi lại đất trước đây của các hộ do chiến tranh biên giới nên phải di dời nay người khác sử dụng; các hộ dân ở thành phố Hồ Chí Minh khiếu nại liên quan đến việc thu hồi đất và sử dụng đất tại dự án khu đô thị mới Thủ Thiêm; khiếu nại của các hộ dân ở thành phố Cần Thơ liên quan đến quy hoạch tại khu vực Cồn Cái Khế; việc một số hộ dân đòi lại đất hiện do Cty Cao su Tân Biên, Nhà máy đường Nước Trong (tỉnh Tây Ninh) đang sử dụng; việc thu hồi đất trồng cao su của các hộ dân tại xã An Tây, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương ….
Một số vụ việc đông người, phức tạp Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường thẩm tra, xác minh đề xuất giải quyết như: Vụ việc của một số công dân ở phường Phước Thới, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ khiếu nại việc thu hồi đất để xây dựng trung tâm điện lực Ô Môn; vụ việc một số doanh nghiệp và hộ dân khiếu nại việc thu hồi đất để xây dựng khu công nghiệp Tân Phú Trung, thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Thanh tra Chính phủ, Ủy ban nhân dân một số tỉnh để xem xét, giải quyết các vụ việc đông người, phức tạp như: Khiếu nại của các hộ dân Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh liên quan đến việc thu hồi đất để thực hiện dự án Khu công nghệ cao; khiếu nại của 684 hộ dân liên quan đến việc thu hồi đất để thực hiện dự án mở rộng Quốc lộ 1A, dự án đuờng cao tốc Trung Lương, dự án khu công nghiệp Tân Hương và dự án đường dây 500 KV Nhà Bè - Ô Môn (tỉnh Tiền Giang).
2. Nội dung tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
Nội dung khiếu tố tập trung vào việc bồi thường giải phóng mặt bằng, bố trí tái định cư, đòi lại đất cũ và tranh chấp quyền sử dụng đất... Nhiều vụ việc khiếu nại nổi cộm, mang tính bức xúc như: việc thu hồi đất để xây dựng cơ sở hạ tầng ở Đà Nẵng, công dân tụ tập bao vây cơ quan, nhà riêng của các đồng chí lãnh đạo tỉnh, kéo lên Trung ương, lưu lại nhiều ngày ở Hà Nội và liên kết với các hộ dân ở Long An, An Giang, Lâm Đồng để gây sức ép đòi được giải quyết quyền lợi.
Nội dung khiếu nại, tố cáo và tranh chấp về đất đai chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau:
a) Bồi thường giải phóng mặt bằng, bố trí tái định cư:
Khiếu nại việc thu hồi đất, bồi thường không thoả đáng, không làm đúng các thủ tục theo quy định của pháp luật như ở Thái Nguyên, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh… thành các đoàn đông người, thường xuyên kéo đến trụ sở các cơ quan ở Trung ương…
Khiếu nại về bồi thường giải phóng mặt bằng thường gay gắt, công dân tụ tập đông người, xảy ra tập trung ở những nơi thu hồi diện tích đất lớn để bố trí phát triển các dự án, người có đất bị thu hồi khiếu nại về thực hiện không đúng quy hoạch, không đúng diện tích, vị trí, giá đền bù thấp, không đáp ứng yêu cầu ổn định cuộc sống…
Ngoài ra, còn một số khiếu nại: đòi thực hiện chính sách bồi thường về đất đai do trước đây chưa được thực hiện trong việc trưng dụng, thu hồi đất; giải toả hành lang an toàn giao thông.
- Thời gian qua, các địa phương tiến hành xây dựng các khu công nghiệp thu hồi chủ yếu là đất sản xuất nông nghiệp, trong khi đó giá đền bù thấp, quỹ đất sản xuất nông nghiệp còn ít hoặc không còn để giao; nhiều trường hợp sau khi thu hồi đất nông nghiệp, giao cho các Công ty để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh, người dân không chấp nhận dẫn đến tình trạng các hộ dân chống đối, không thực hiện các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và đã có nhiều hành vi ngăn cản, đập phá phương tiện và chống người thi hành công vụ như ở Hà Nội .v.v..
b) Đòi lại đất cũ:
- Đòi lại đất trước đây đưa vào Hợp tác xã nông nghiệp hay Tập đoàn sản xuất nông nghiệp, đã giao khoán cho các hộ khác sử dụng, khi Hợp tác xã, Tập đoàn sản xuất tan rã có tình trạng ruộng đất của ai, người đó lấy lại sử dụng, nhưng một bộ phận nông dân không lấy lại được ruộng đất vì người khác đang sử dụng hoặc chính quyền đã sử dụng vào mục đích khác.
- Đòi lại đất khi Nhà nước thực hiện chính sách “nhường cơm, sẻ áo”; đất cho người khác thuê, mượn để sản xuất, làm nhà ở hoặc nhờ người trông coi trước năm 1987, nay những người này đang sử dụng.
- Đòi lại đất chính quyền chế độ cũ lấy để sử dụng, sau giải phóng, Nhà nước tiếp quản hoặc giao cho người khác sử dụng, như ở Tiền Giang, Bến Tre… gây nhiều bức xúc.
- Đòi lại đất có nhà ở khu vực đô thị trong quá trình cải tạo công thương nghiệp Nhà nước đã quản lý nhưng không làm đầy đủ thủ tục.
- Đòi lại đất tôn giáo đã hiến, cho, cho mượn hoặc chính quyền đã sử dụng làm nhà trẻ, trường học, mẫu giáo, nhà văn hoá...
- Đòi đất cũ khi chiến tranh biên giới xảy ra, người có đất đi sơ tán sau quay lại đã có người sử dụng hoặc Nhà nước đã giao cho người khác sử dụng.
c) Tranh chấp quyền sử dụng đất:
- Tranh chấp đất hương hoả, dòng tộc, đòi chia thừa kế.
- Tranh chấp giữa đồng bào dân tộc ở địa phương với dân di cư.
- Tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nhân dân ở các địa phương với các đơn vị được Nhà nước giao đất an ninh, quốc phòng và các nông, lâm trường.
- Tranh chấp đất giữa cá nhân với cá nhân, hộ gia đình về diện tích, ranh giới sử dụng đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất .v.v..
d) Tố cáo cán bộ thực hiện sai quy định của Nhà nước về đất đai:
Các tố cáo chủ yếu tập trung vào các nội dung:
- Tố cáo việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi trong việc thu hồi đất, giao đất, đấu giá quyền sử dụng đất để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, kinh doanh nhà ở; lợi dụng chính sách thu hồi đất của nông dân để chia cho cán bộ.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao chiếm ruộng đất, lập trang trại; khai tăng diện tích, sai vị trí đất để tham ô.
- Tố cáo chính quyền địa phương (chủ yếu là cấp xã) giao đất trái thẩm quyền, giao đất không đúng diện tích được phê duyệt theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, giao sai vị trí, diện tích, không đúng quy hoạch, thu tiền đất vượt nhiều lần so với quy định của Nhà nước, sử dụng tiền thu từ đất không đúng chế độ tài chính.
- Tố cáo chính quyền địa phương quản lý, sử dụng quỹ đất công ích (5%) sai mục đích, sai quy định của pháp luật, cho thuê, đấu thầu lâu năm thu tiền chi tiêu riêng, để diện tích đất công ích vượt quá 5%.
- Ngoài ra, có nhiều đơn tố cáo cán bộ nhũng nhiễu, đòi hối lộ trong việc giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
đ) Một số nội dung khác:
- Có trường hợp khiếu kiện đã được các cấp, ngành ở địa phương, Trung ương giải quyết phù hợp với quy định của pháp luật, có lý, có tình nhưng công dân vẫn cố tình khiếu kiện, đeo bám các cơ quan ở Trung ương, ở Hà Nội trong thời gian vài ba năm .v.v..
- Hiện nay đã bắt đầu xuất hiện loại khiếu kiện mới liên quan đến việc giao đất nông nghiệp theo Nghị định số 64/CP ngày 27 tháng 9 năm 1993 của Chính phủ. Người sử dụng đất nông nghiệp khi bị thu hồi đã khiếu nại đòi quyền lợi đối với thời gian còn lại của thời hạn được giao 20 năm.
3. Nguyên nhân chủ yếu phát sinh tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai trong thời gian qua
Do chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước thực hiện chính sách mới về quản lý đất đai. Đất đai trở thành một tư liệu sản xuất quan trọng và là một tài sản có giá đối với với mọi người dân.
Kết hợp với nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến việc số lượng khiếu kiện khiếu nại của người dân liên quan đến ruộng đất trở nên đông đảo và phức tạp số vụ khiếu kiện liên quan đến đất đai ngày càng đông chiếm tới hơn 90%. Lỗi là do chính quyền một số địa phương đã “chưa làm đúng pháp luật", chưa công khai, minh bạch, dân chủ. Điều này thể hiện năng lực, trách nhiệm của chính quyền các cấp trong việc giải quyết khiếu kiện.
Có nhiều nguyên nhân làm phát sinh khiếu nại về đất đai nói chung, nhưng chủ yếu vẫn tập trung vào các nguyên nhân sau đây:
a) Có sự biến động lớn về chủ sử dụng đất
Chiến tranh khốc liệt trong 30 năm, tiếp theo đó là chiến tranh biên giới gây nên sự xáo trộn lớn về nơi cư trú cùng với những chính sách đất đai theo yêu cầu của từng thời kỳ cách mạng đã dẫn đến những biến động lớn về chủ sử dụng đất. Mặc dù pháp luật về đất đai không thừa nhận việc đòi lại đất đã giao theo quy định của Nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai nhưng nhiều người vẫn tranh chấp hoặc khiếu nại để đòi đất cũ của mình.
b) Sự bất cập của hệ thống chính sách pháp luật về đất đai
- Hệ thống pháp luật đất đai trong thời gian dài đã tránh né việc giải quyết một số quan hệ về đất đai, dẫn tới tồn đọng số vụ việc cần giải quyết và gây ra sự vận dụng khác nhau giữa các địa phương khi giải quyết những vấn đề giống nhau.
- Từ chỗ pháp luật công nhận nhiều hình thức sở hữu đất đai chuyển sang quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, đến sau này quy định cho người sử dụng đất có đầy đủ các quyền, do vậy, việc nắm bắt kịp thời các quy định pháp luật của cán bộ và người dân hạn chế, việc hiểu các quy định pháp luật cũng không đầy đủ và quan niệm về chế độ sở hữu tư nhân về đất đai trong nhân dân vẫn còn tồn tại. Việc ban hành văn bản pháp luật về đất đai theo từng giai đoạn lịch sử, phát triển của đất nước nên thiếu đồng bộ và còn chồng chéo, thiếu công bằng, người hưởng chính sách sau được lợi hơn người hưởng chính sách trước (có một số trường hợp những người chây ì, không chấp hành pháp luật được lợi hơn người chấp hành nghiêm pháp luật), từ đó dẫn đến so bì, khiếu kiện.
- Những năm 1980, hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp ở miền Nam được hình thành, sau đó giải thể nhưng Nhà nước chưa có chính sách xử lý kịp thời, tình trạng tự phát lấy lại ruộng đất và biện pháp giải quyết của các địa phương không thống nhất trong việc phân bổ lại đất đai khi các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất giải thể, đã dẫn đến nhiều khiếu kiện.
c) Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng có nhiều bất cập
- Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền của Nhà nước với tư cách là đại diện sở hữu toàn dân về đất đai và quyền của người sử dụng đất đã được pháp luật công nhận, dẫn tới nhấn mạnh quyền thu hồi đất của Nhà nước, nhấn mạnh việc tạo vốn từ quỹ đất mà chưa quan tâm đầy đủ lợi ích chính đáng của người sử dụng đất, đặc biệt là trong việc định giá đất bồi thường, xử lý mối tương quan giữa giá đất thu hồi với giá đất tái định cư (thu hồi theo giá Nhà nước quy định quá thấp, giao đất tái định cư lại theo giá gần sát giá thị trường).
- Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích của xã hội với lợi ích của những người có đất bị thu hồi, thường chỉ nhấn mạnh đến tính cấp thiết của việc giải phóng mặt bằng để có được dự án, chưa chú ý những vấn đề xã hội nảy sinh sau khi thu hồi đất, dẫn tới không bảo đảm điều kiện tái định cư, không có phương án tích cực về giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi, nhất là đối với nông dân không còn hoặc còn ít đất sản xuất hoặc những người không còn việc làm như nơi ở cũ.
- Chưa giải quyết tốt mối quan hệ về lợi ích giữa nhà đầu tư cần sử dụng đất với người có đất bị thu hồi, thường nhấn mạnh đến môi trường đầu tư, nóng vội giải phóng mặt bằng để giao đất, cho thuê đất. Việc quy định giá đất quá thấp so với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường tuy có tác động tích cực tới việc khuyến khích nhà đầu tư nhưng lại gây ra những phản ứng gay gắt của những người có đất bị thu hồi.
- Việc chưa điều chỉnh kịp thời giá đất để tính bồi thường khi Nhà nước thực hiện dự án có liên quan đến nhiều tỉnh hoặc việc cho người có nhu cầu sử dụng đất phát triển các dự án tự thoả thuận bồi thường với người dân đang sử dụng đất, người được giao đất muốn giải phóng mặt bằng nhanh đã chấp nhận giá bồi thường cao hơn quy định của Nhà nước làm cho mức đền bù chênh lệch trên cùng một khu vực, từ đó phát sinh khiếu nại.
- Quy hoạch thu hồi đất nông nghiệp để giao cho các nông trường, lâm trường, các dự án đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ, xây dựng hạ tầng trong nhiều trường hợp chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng, tính khả thi thấp dẫn tới tình trạng thu hồi đất nhưng không sử dụng, sử dụng không có hiệu quả trong khi nông dân thiếu đất hoặc không còn đất sản xuất, đời sống khó khăn.
- Không chấp hành đúng các quy định của Nhà nước về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư như ra thông báo giải phóng mặt bằng mà không có quyết định thu hồi đất, không thông báo trước về kế hoạch, phương án thu hồi đất cho người có đất bị thu hồi, cưỡng chế giải phóng mặt bằng trong khi chưa bố trí nơi tái định cư, quyết định thu hồi đất không đúng thẩm quyền, thu hồi đất để sử dụng vào mục đích trái quy hoạch đã được xét duyệt.
- Đối với một số dự án còn có tình trạng áp dụng pháp luật thiếu công bằng giữa những trường hợp có điều kiện tương tự.
- Việc thu hồi đất nông nghiệp để phục vụ việc quy hoạch phát triển đô thị và các khu công nghiệp nhiều nơi chưa cân nhắc, tính toán đồng bộ toàn diện dẫn đến trường hợp người dân bị thu hồi gần hết hoặc hết đất sản xuất, được đền bù bằng tiền (không có đất khác để giao), giá trị thấp, việc chuyển đổi nghề nghiệp là rất khó khăn do trình độ hạn chế dẫn đến thất nghiệp, đời sống gặp nhiều khó khăn, phát sinh các tệ nạn xã hội và phát sinh ra khiếu kiện. Điển hình như trường hợp khiếu kiện đông người về dự án Cụm công nghiệp xã Lai Vu, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương: thu hồi trên 200ha chiếm 80% đất nông nghiệp của toàn xã với tổng số trên 1.000 hộ dân tương ứng với 5.000 nhân khẩu (trong độ tuổi lao động gần 2.600 người), hiện nay đất nông nghiệp của toàn xã chỉ còn trên 20ha, nhưng bước đầu dự án mới thu hút được 100 lao động đi đào tạo nghề và 35 lao động đi học nghề may, số còn lại người dân chưa có công ăn việc làm, trong khi đó họ chỉ là những lao động thuần nông.
Nguyên nhân sâu xa của những biểu hiện nêu trên là chưa quán triệt và chấp hành nghiêm chỉnh quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về đất đai. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã nêu rõ phải giải quyết hài hoà mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất, nơi tái định cư phải có điều kiện bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ, nhưng trong thực tế triển khai đã chưa thể hiện đúng và đầy đủ quan điểm đó.
d) Sự yếu kém trong công tác tổ chức thi hành pháp luật về đất đai
- Việc áp dụng pháp luật về đất đai của các địa phương còn nhiều bất cập, nhất là trong việc thu hồi đất như đã nêu trên. Sau khi có Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành, nhiều địa phương chưa kịp thời ban hành đủ các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hoá thuộc thẩm quyền của cấp tỉnh để triển khai; nhiều địa phương vẫn chưa nắm chắc những đổi mới, những quy định mới của pháp luật về đất đai nên vẫn còn áp dụng những quy định cũ đã bị huỷ bỏ hoặc thay thế, nhiều trường hợp áp dụng sai quy định. Những bất cập này đã tạo nên những vụ việc khiếu kiện mới về đất đai.
- Việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Nhà nước trước đây ở một số nơi không nghiêm, chưa triệt để và chưa hợp lý, đã dẫn đến tình trạng xáo canh, cào bằng. Những năm 1980, hợp tác xã (HTX) và tập đoàn sản xuất (TĐSX) nông nghiệp được hình thành nhưng việc quản lý các HTX, TĐSX đã có những yếu kém dẫn đến tan rã, nhưng Nhà nước chưa có chính sách xử lý kịp thời, tình trạng tự phát lấy lại ruộng đất và biện pháp giải quyết của các địa phương không thống nhất trong việc phân bổ lại đất đai khi các HTX, TĐSX tan rã, đã dẫn đến nhiều khiếu kiện.
- Công tác quản lý đất đai cũng còn nhiều bất cập, hồ sơ địa chính chưa được quan tâm đúng mức, chưa đầy đủ, không đủ cơ sở cho việc quản lý đất đai. Công tác quy hoạch sử dụng đất chậm, việc chỉnh lý biến động đất đai không được theo dõi, cập nhật thường xuyên dẫn đến việc tham mưu không đầy đủ, thiếu chính xác trong việc quy hoạch, thu hồi đất và giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai.
- Nhiều địa phương chưa có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết, dẫn tới tuỳ tiện trong giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất.
- Đa số các địa phương chưa đầu tư kinh phí thoả đáng để xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính, bảo đảm quản lý chặt chẽ đối với từng thửa đất. Công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chậm và trong một số trường hợp không chính xác.
- Công tác kiểm tra, thanh tra chưa được quan tâm đúng mức, trong đó công tác hậu kiểm đối với các dự án, công trình sau khi được giao đất, cho thuê đất ít được các địa phương chú ý. Tình trạng sử dụng đất không đúng mục đích, không đúng tiến độ, không đầu tư theo dự án mà chỉ chờ chuyển nhượng kiếm chênh lệch giá đã ít được phát hiện và xử lý kịp thời. Việc kiểm tra, thanh tra thực hiện chế độ công vụ và xử lý những vi phạm của cán bộ, công chức trong công tác quản lý và sử dụng đất đai chưa được đặt ra một cách cụ thể, tích cực.
- Nguyên nhân từ việc quản lý thiếu chặt chẽ, còn sai sót của cơ quan nhà nước: đo đạc không chính xác diện tích, nhầm lẫn địa danh, thu hồi đất không có quyết định, không làm đầy đủ các thủ tục pháp lý, giao đất, cho thuê đất, đấu thầu đất, bồi thường giải toả và sử dụng những khoản tiền thu được không công khai gây ngờ vực cho nhân dân.
- Việc giao đất trái thẩm quyền, không đúng đối tượng, giao sai diện tích, vị trí, sử dụng tiền thu từ đất sai quy định của pháp luật hoặc người sử dụng đất đã làm đủ các nghĩa vụ theo quy định nhưng không được hợp thức quyền sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là những nguyên nhân tạo thành khiếu kiện đông người, thành các đoàn khiếu kiện đến các cơ quan Trung ương
Sự yếu kém, bất cập trong công tác quản lý đất đai cùng với một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức có những hành vi vụ lợi trong quản lý, sử dụng đất đai, nhũng nhiễu, thiếu công tâm là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh những khiếu nại, tranh chấp về đất đai.
e) Sự bất cập trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
- Trong tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, nhiều địa phương chưa làm tốt việc tiếp dân, nhận đơn, chưa hướng dẫn cụ thể theo pháp luật về việc nộp đơn để tình trạng người đi khiếu kiện đi hết nơi này đến nơi khác, một nội dung đơn mà gửi đi rất nhiều cơ quan. Khi phát sinh khiếu kiện, đã không tập trung chỉ đạo giải quyết kịp thời, thậm chí né tránh, đùn đẩy. Nhiều vụ việc đã có quyết định giải quyết cuối cùng nhưng việc tổ chức thi hành quyết định không nghiêm, cơ quan ra quyết định thiếu kiểm tra, đôn đốc kịp thời để giải quyết dứt điểm; một số vụ việc đã có kết luận hoặc quyết định giải quyết nhưng không có tính khả thi trong tổ chức thi hành dẫn tới phát sinh những khiếu kiện mới phức tạp hơn.
- Các vụ việc đã được giải quyết nhưng việc tổ chức thực hiện chưa tốt, thiếu kiểm tra, đôn đốc kịp thời để khiếu kiện kéo dài, gây bức xúc, làm phát sinh những quan hệ khiếu kiện mới phức tạp hơn. Một số địa phương sau khi ban hành quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng cho rằng đã hết trách nhiệm, nhiều trường hợp quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng có sai sót không được sửa đổi, bổ sung do đó gây tâm lý ngờ vực về chính quyền địa phương giải quyết không đúng chính sách pháp luật và người dân tiếp tục khiếu nại.
- Đất đai là vấn đề phức tạp, đã và đang phát sinh nhiều khiếu kiện, nhưng tổ chức và cơ chế giải quyết khiếu kiện thiếu ổn định và nhìn chung bất cập so với yêu cầu thực tế. Giải quyết một vụ khiếu nại đòi hỏi phải có các bước điều tra, nghiên cứu, kết luận và thi hành kết luận (tương tự như một vụ án hành chính hoặc vụ án dân sự), do đó cần một đội ngũ những người am hiểu pháp luật, có nghiệp vụ chuyên sâu và làm việc chuyên trách. Nhưng công tác giải quyết khiếu nại hiện nay chủ yếu là kiêm nhiệm. Khiếu nại về đất đai chủ yếu nảy sinh ở cấp huyện nhưng bộ máy thụ lý ở cấp này lại không tương ứng. Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp là người chủ trì, chịu trách nhiệm chính về quyết định giải quyết khiếu nại nhưng lại phải lo mọi việc của địa phương nên khó có điều kiện chuyên tâm về việc này. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng giải quyết khiếu nại chậm chạp, thiếu dứt điểm, chất lượng thấp, tái khiếu nhiều.
- Trong quá trình giải quyết các vụ việc tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, nhiều nơi chưa nghiên cứu kỹ các quy định của pháp luật, nên có những trường hợp áp dụng chưa phù hợp. Nhiều vụ việc tồn đọng mà nếu giải quyết thì sẽ kéo theo nhiều trường hợp tương tự khác cũng phải giải quyết, nhưng không giải quyết thì người khiếu nại không chấp nhận. Nhiều trường hợp đã giải quyết theo đúng quy định của pháp luật nhưng người dân vẫn tiếp khiếu.
- Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai liên quan đến thẩm quyền của nhiều cơ quan khác nhau. Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện chức năng quản lý đất đai, Bộ Tài chính quản lý chính sách tài chính về đất đai, Bộ Xây dựng quản lý về nhà ở. Tại các tỉnh, việc phân công thực hiện nhiệm vụ tham mưu cho Ủy ban nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai không thống nhất, có nơi giao cho Thanh tra tỉnh chủ trì, có nơi giao cho Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì; ở cấp huyện có nơi giao cho Thanh tra huyện, có nơi giao cho Phòng Tài nguyên và Môi trường, thậm chí có nơi vừa giao cho Thanh tra vừa giao cho cơ quan Tài nguyên và Môi trường. Tình trạng này đã gây khó khăn cho công dân và lúng túng trong việc xác định thẩm quyền tham mưu giải quyết.
- Những tồn tại có tính lịch sử, như việc cho thuê, cho mượn, cầm cố đất trong nội bộ nhân dân, việc đưa đất, lao động vào các tập đoàn sản xuất, các nông, lâm trường, không có hoặc không lưu giữ được các tài liệu, sổ sách khi trưng dụng, trưng thu, trưng mua, thu hồi đất không có quyết định, chưa bồi thường hoặc đã bồi thường nhưng không lưu giữ hồ sơ, đã gây khó khăn rất lớn cho quá trình giải quyết các vụ việc. Việc đầu tư cho công tác quản lý đất đai chưa được chú trọng nên hồ sơ địa chính không đồng bộ, sổ sách, bản đồ, tư liệu thiếu. Công tác lưu trữ tư liệu địa chính chưa tốt dẫn đến việc xác định nguồn gốc, quá trình sử dụng đất gặp nhiều khó khăn.
- Hệ thống pháp luật quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo thiếu đồng bộ. Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật Đất đai có các quy định không thống nhất trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Cho đến nay, vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về mối quan hệ trong giải quyết khiếu nại, tranh chấp giữa cơ quan hành chính và toà án nhân dân, giữa Bộ quản lý chuyên ngành và Thanh tra Chính phủ. Thẩm quyền giải quyết giữa cơ quan hành chính và cơ quan toà án chưa cụ thể, rõ ràng nên nhiều trường hợp người dân phải đi lại nhiều lần giữa Toà án nhân dân và Ủy ban nhân dân nhưng vẫn không được tiếp nhận để giải quyết.
- Văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, nhưng còn nhiều vấn đề chưa được quy định cụ thể, rõ ràng, nhất là xác định trường hợp được hoặc không được đền bù, xác định loại đất để đền bù.
- Việc phối hợp giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai giữa các cơ quan có thẩm quyền chưa được chặt chẽ và thống nhất, còn đùn đẩy trách nhiệm, có nhiều vụ việc còn có ý kiến khác nhau làm cho công dân tiếp khiếu dai dẳng. Một số địa phương trước những vấn đề phức tạp đã không nghiên cứu kỹ chính sách, pháp luật và vận dụng cụ thể vào tình hình thực tế để giải quyết mà dựa dẫm vào việc xin ý kiến giải quyết của các cơ quan Trung ương.
- Một bộ phận người dân chưa nhận thức đầy đủ các quy định của pháp luật, lại bị kích động nên khiếu kiện gay gắt đối với những trường hợp đã được giải quyết đúng pháp luật. Một số trường hợp lợi dụng việc khiếu nại, tố cáo để kéo dài thời gian, không chấp hành quyết định giải quyết đã có hiệu lực pháp luật. Nhiều trường hợp cố tình gây rối, coi thường pháp luật và chống đối người thi hành công vụ nhưng chưa được xử lý nghiêm minh. Trong khi đó, trên thực tế không có điểm dừng về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo.
- Kỷ luật hành chính chưa nghiêm trong thực hiện ý kiến chỉ đạo giải quyết của Thủ tướng Chính phủ, ý kiến kiến nghị giải quyết của các Bộ, ngành ở Trung ương, làm người dân bất bình, tiếp khiếu lên cơ quan cấp trên.
g) Sự thiếu gương mẫu, sa sút về phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, công chức; sự thiếu hiểu biết và thiếu ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận nhân dân
Một số cán bộ vì lợi ích kinh tế, tranh thủ trong thời gian đương chức đã cố tình vi phạm chính sách pháp luật đất đai để trục lợi.
Việc áp dụng pháp luật của Uỷ ban nhân dân các cấp còn có tình trạng tuỳ tiện, nhất là ở cấp huyện và cấp xã. Rất nhiều điểm đổi mới của Luật Đất đai vẫn chưa đưa được vào thực tế vì cán bộ quản lý ở nhiều nơi chưa biết, vẫn quyết định theo quy định của pháp luật trước đây. Uỷ ban nhân dân các cấp chưa chăm lo nhiều đến công tác tiếp dân, công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo của công dân. Từ đây làm cho dân không tin vào bộ máy hành chính ở địa phương, không tin vào quyết định hành chính của địa phương, luôn mong muốn có sự phán quyết của Trung ương.
Đất đai là vấn đề phức tạp, các chính sách đất đai liên tục thay đổi từ thời chiến sang thời bình, từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường. Để giải quyết cần có một đội ngũ những người am hiểu pháp luật, có nghiệp vụ chuyên sâu, làm việc chuyên trách, có trách nhiệm cao, biết làm một công bộc của dân.
Đất đai có giá trị đặc biệt, nhưng trong thời gian dài đã quản lý lỏng lẻo, dẫn tới những sai phạm có tính phổ biến, trong đó đáng lưu ý là một bộ phận cán bộ, công chức đã lợi dụng chức quyền để chia chác đất đai hoặc trục lợi từ đất đai, để lại những hậu quả nặng nề và gây ra những bức xúc trong dư luận xã hội.
Tình trạng lấn chiếm đất đai diễn ra phổ biến, việc chuyển nhượng trao tay trong nhân dân không tuân theo quy định của pháp luật làm phát sinh các khiếu kiện khó giải quyết.
Nhận thức của người dân về chính sách, pháp luật đất đai và pháp luật về khiếu nại, tố cáo nhìn chung còn nhiều hạn chế, trong khi việc tuyên truyền, phổ biến của các cơ quan có trách nhiệm chưa tốt. Nhiều trường hợp người dân mặc dù hiểu rõ các quy định của pháp luật, song cố tình không chấp hành những quyết định đã giải quyết đúng pháp luật; một số trường hợp bị kích động hoặc lợi dụng việc khiếu kiện để kích động khiếu nại đông người, gây sức ép đối với cơ quan Nhà nước nhưng việc xử lý không nghiêm.
II. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP, KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI - KẾT QUẢ VÀ KINH NGHIỆM.
1. Kết quả giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai trong thời gian qua.
Thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo và Chỉ thị số 09-CT/TW của Ban Bí thư, các ngành, các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhờ đó, công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đã có những chuyển biến tích cực. Từ năm 2006 đến nay, các cơ quan hành chính Nhà nước đã tiếp 550.107 lượt người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, trong đó có 1.447 lượt đoàn đông người; tiếp nhận 291.887 đơn thư; giải quyết 113,535/138.099 vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền, đạt tỷ lệ 82,21%. Qua giải quyết khiếu nại, tố cáo đã kiến nghị thu hồi cho Nhà nước, cho tập thể, công dân 92.429 triệu đồng; 637,77 ha đất; xử lý hành chính 1.150 người; chuyển cơ quan điều tra xem xét trách nhiệm hình sự 46 vụ việc với 80 người. Thanh tra Chính phủ đã đẩy mạnh công tác thanh tra trách nhiệm thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo của chính quyền địa phương để chấn chỉnh và tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; đồng thời, chủ động phối hợp với chính quyền địa phương tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo. Qua đó, đã kiến nghị các cơ quan hành chính nhà nước điều chỉnh nhiều cơ chế chính sách, pháp luật chưa phù hợp, khắc phục, chấn chỉnh những bất cập trong quản lý nhà nước.
Những kết quả trên đã góp phần quan trọng vào việc ổn định tình hình an ninh, chính trị, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong những năm qua. Tuy nhiên, tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân ở một số địa phương vẫn có chiều hướng gia tăng, số lượng các vụ việc khiếu kiện vượt cấp, đông người vẫn còn nhiều. Trong những người đi khiếu nại, tố cáo, có những người khiếu nại, tố cáo đúng, mong muốn được pháp luật giải quyết công minh; nhưng cũng có một số người mặc dù về việc khiếu nại đã được cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết đúng pháp luật, nhưng hoặc vì thiếu hiểu biết, hoặc vì cố chấp mà vẫn cố tình khiếu nại, tố cáo kéo dài. Một số người đi khiếu nại, tố cáo có thái độ gay gắt, cực đoan, có hành vi quá khích làm ảnh hưởng đến trật tự xã hội ở một số địa bàn.
a) Kết quả triển khai các đoàn giải quyết khiếu nại, tố cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường:
* Từ năm 2003 đến năm 2008
Để giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền và các vụ việc do Thủ tướng Chính phủ giao nêu trên, Bộ đã tổ chức 62 đoàn công tác để thẩm tra, xác minh tại 47 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, kết quả cụ thể:
- Có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ được 112 vụ việc, còn 27 vụ việc đang được các đoàn công tác của Bộ thẩm tra, xác minh tại địa phương.
- Có văn bản giải quyết đối với 961 vụ việc thuộc thẩm quyền, còn 24 vụ việc đang được thẩm tra, xác minh tại địa phương hoặc đang nghiên cứu hồ sơ để trả lời công dân.
Qua việc xem xét, giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền và Thủ tướng Chính phủ giao thì trong các năm 2003 và 2004 số vụ việc mà Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải điều chỉnh lại quyết định giải quyết gần 20%, các năm còn lại tỷ lệ này đã giảm xuống còn hơn 1% (có nguyên nhân từ số vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ giảm).
Đối với các vụ việc vượt cấp và các vụ việc đã có quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Bộ đã có 11.974 văn bản hướng dẫn, trả lời công dân; đây là công đoạn hiện chiếm nhiều nhân lực và thời gian nhất trong công tác xử lý đơn thư tại Bộ.
* Kết quả giải quyết 6 tháng đầu năm 2009
- Đoàn công tác liên ngành giải quyết khiếu nại của các hộ dân liên quan quan đến thu hồi đất, đền bù giải phòng mặt bằng khi thực hiện dự án Khu công nghiệp Tân Phú Trung, thành phố Hồ Chí Minh do Thủ tướng Chính phủ giao. Đoàn đã kết thúc và hoàn thiện văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ;
- Đoàn công tác giải quyết khiếu nại do Thủ tướng Chính phủ giao tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Sóc Trăng. Đoàn đang tiếp tục làm việc theo kế hoạch.
- Triển khai Đoàn công thẩm tra xác minh đơn khiếu nại, tố cáo của công dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Đoàn đã kết thúc và hoàn chỉnh báo cáo, kết luận trình Thủ tướng Chính phủ.
- Kết thúc và hoàn chỉnh báo cáo Đoàn công tác thẩm tra, xác minh và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của công dân tại tỉnh Phú Thọ.
- Đoàn kiểm tra khiếu nại của Công ty TNHH Sông Lô Hà Giang theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Hiện nay Đoàn đã kết thúc và đang xây dựng dự thảo Báo cáo kết luận kiểm tra để Bộ trình Thủ tướng Chính phủ.
* Kết quả thực hiện Kế hoạch số 319/KH-TTCP ngày 20 tháng 02 tháng 2009 của Thanh tra Chính phủ
Thực hiện Thông báo số 89/TB-VPCP ngày 19 tháng 3 năm 2009 của Văn phòng Chính phủ, Kế hoạch số 319/KH-TTCP ngày 20 tháng 02 năm 2009 của Thanh tra Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thực hiện các biện pháp:
+ Tiến hành tự rà soát các vụ việc thuộc thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết còn tồn đọng, kéo dài chưa dứt điểm tại Bộ Tài nguyên và Môi trường.
+ Ban hành Văn bản số 1521/BTNMT-TTr ngày 12 tháng 5 năm 2009 đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương rà soát, tổng hợp, báo cáo tình hình đơn thư tranh chấp, khiếu nại về đất đai (từ năm 2003 đến nay).
+ Triển khai các đoàn công tác để phối hợp với địa phương giải quyết dứt điểm các vụ việc tồn đọng, kéo dài. Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã cử Đoàn công tác để giải quyết 16 vụ việc trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Đến nay tại Bộ Tài nguyên và Môi trường có 118 vụ việc khiếu nại, tranh chấp đất đai tồn đọng, bức xúc, kéo dài, cụ thể:
+ Các trường hợp cần chấm dứt việc xem xét, giải quyết: Gồm có 09 vụ việc đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét, giải quyết đúng chính sách, pháp luật và đã được rà soát nhiều lần không có tình tiết mới khác nhưng công dân vẫn tiếp tục khiếu nại.
+ Các vụ việc cần kiểm tra, đôn đốc giải quyết: Gồm có 53 vụ việc sau khi Thủ tướng Chính phủ có ý kiến chỉ đạo hoặc Bộ Tài nguyên và Môi trường có văn bản đề nghị giải quyết nhưng địa phương chưa giải quyết dứt điểm.
+ Các vụ việc cần phối hợp với địa phương để tiếp tục xem xét, giải quyết: Gồm có 41 vụ việc đã được địa phương giải quyết theo nội dung đã thống nhất với Bộ Tài nguyên và Môi trường nhưng công dẫn vẫn tiếp tục khiếu nại hoặc những vụ việc đã thống nhất giải quyết nhưng trong quá trình thực hiện, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố báo cáo có khó khăn, vướng mắc, đề xuất khác.
+ Các vụ việc phải giải quyết trong thời gian tới: Gồm có 15 vụ việc do Thủ tướng Chính phủ giao và thuộc thẩm quyền của Bộ.
b) Kết quả công tác thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo của các Sở Tài nguyên và Môi trường:
Đến ngày 29 tháng 6 năm 2009, theo tổng hợp của Bộ Tài nguyên và Môi trường đã nhận được báo cáo sơ kết công tác thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo 6 tháng đầu năm 2009 của 55/63 Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, kết quả tổng hợp như sau:
+ Trong 6 tháng đầu năm 2009 các Sở Tài nguyên và Môi trường đã triển khai tổng cộng 480 Đoàn thanh tra, kiểm tra đối với 1.751 đơn vị, trong đó:
- 213 Đoàn theo Kế hoạch
- 267 Đoàn đột xuất.
Riêng đối với lĩnh vực đất đai: 166 Đoàn chiếm 34,6%. Các Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh cũng đã tiến hành thu hồi đất đai của 40 đơn vị với diện tích là 241,2 ha.
c) Đánh giá kết quả thực hiện
- Phần lớn các vụ khiếu nại thuộc lĩnh vực đất đai, có vụ việc trải qua nhiều thời kỳ thực hiện chính sách đất đai, hồ sơ tài liệu phân tán, hiện trạng đất thay đổi nên khó xác định nguồn gốc; trong khi đó hệ thống pháp luật chưa đồng bộ dẫn đến việc áp dụng thiếu nhất quán. Biên chế lực lượng làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo có hạn nên không thể giải quyết tất cả các vụ việc theo thời hạn luật định, do đó vẫn còn những vụ việc tồn đọng, kéo dài.
- Một số nơi giải quyết khiếu nại lần đầu chưa bảo đảm về trình tự thủ tục. Các biện pháp chế tài để triển khai thực hiện các kết luận, quyết định đã có hiệu lực pháp luật chưa đủ mạnh, làm cho kết luận, quyết định giải quyết chưa được thực hiện nghiêm.
- Công tác thanh tra, kiểm tra giải quyết khiếu nại tố cáo đôi khi còn mang tính hình thức, chiếu lệ. Một số vụ việc giải quyết còn đơn giản, chủ quan, thiếu thực tế; vận dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại tố cáo đôi lúc chưa thống nhất.
- Việc tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật nói chung, luật khiếu nại, tố cáo nói riêng trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong cộng đồng dân cư chưa thường xuyên nên nhận thức của một bộ phận nhân dân về pháp luật còn mơ hồ, cũng dẫn đến phát sinh các khiếu kiện.
* Những tồn tại trong giải quyết khiếu nại tố cáo và tranh chấp về đất đai:
Trong những năm qua, được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền tỉnh, hệ thống các cơ quan Thanh tra trên toàn quốc đã có nhiều nỗ lực trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai của công dân, giải quyết được khối lượng lớn đơn thư khiếu tố của công dân, góp phần ổn định tình hình chính trị, giữ vững trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Tuy vậy, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai còn những hạn chế:
- Về lãnh đạo, chỉ đạo:
Cấp uỷ, chính quyền đôi lúc còn coi nhẹ công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, chưa huy động được vai trò của các tổ chức quần chúng, chưa phát hiện giải quyết kịp thời, có nơi có biểu hiện đùn đẩy trách nhiệm, thiếu thống nhất, tập trung, chú trọng vào vấn đề phát triển kinh tế của địa phương, chưa quan tâm đầy đủ đến vấn đề xã hội phát sinh từ vấn đề thu hồi đất như: tái định cư, đời sống, việc làm, nghề nghiệp…
Việc thực hiện không đúng các quy định của chính sách pháp luật về đất đai và giải quyết chưa phù hợp với chính sách pháp luật các tranh chấp, khiếu nại về đất đai thời gian qua vẫn còn chiếm số lượng nhiều ở các cấp là 54%, cấp tỉnh giải quyết chưa phù hợp với chính sách pháp luật khoảng 20%. Các quyết định giải quyết đã có hiệu lực pháp luật nhưng chậm được thi hành.
Công tác hòa giải ở cấp cơ sở chưa được quan tâm đúng mức, nhiều địa phương không bố trí cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất, kinh nghiệm đảm nhiệm công việc này nên việc hòa giải đạt hiệu quả chưa cao. Đội ngũ cán bộ làm công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai còn yếu kém về năng lực.
Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai còn mang nặng về mệnh lệnh hành chính, nhiều quyết định giải quyết chưa thấu tình đạt lý.
Việc tổ chức thực hiện quyết định giải quyết đã có hiệu lực pháp luật còn thiếu kiên quyết, dẫn đến vụ việc không được giải quyết dứt điểm, khiếu kiện kéo dài
Hình thức văn bản giải quyết một số vụ việc chưa bảo đảm theo quy định của pháp luật như việc ban hành công văn, thông báo... để thay thế quyết định giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai.
- Về phân công trách nhiệm quản lý và tham mưu giải quyết:
Lực lượng trực tiếp giúp cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai chưa được phân công nhiệm vụ rành mạch. Việc phân công thực hiện nhiệm vụ tham mưu cho Uỷ ban nhân dân các cấp giải quyết các khiếu nại, tranh chấp về đất đai cũng không thống nhất: ở cấp tỉnh có vụ việc giao cho Thanh tra tỉnh, có vụ việc giao cho Sở Tài nguyên và Môi trường; ở cấp huyện có nơi giao cho Thanh tra huyện, có nơi giao cho Phòng Tài nguyên và Môi trường.
Hiện nay, việc thẩm tra, xác minh kết luận, kiến nghị việc giải quyết các khiếu nại về đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp không giao cho ngành Tài nguyên và Môi trường.
Tình trạng nêu trên đã tăng thêm khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai của công dân và lúng túng trong việc xác định thẩm quyền tham mưu giải quyết.
- Về công tác quản lý đất đai:
Những tồn tại do lịch sử để lại như trưng dụng, trưng thu, trưng mua, thu hồi đất chưa có quyết định, chưa bồi thường hoặc đã bồi thường nhưng không còn lưu hồ sơ chứng cứ. Công tác kiểm kê trước khi trưng dụng, trưng thu, trưng mua, thu hồi đất không được thực hiện hoặc được thực hiện thì cũng sơ sài, không còn lưu sổ sách.
Việc thực hiện không triệt để các quy định của pháp luật đất đai ở các cấp làm cho hồ sơ địa chính không đồng bộ, sổ sách, bản đồ, tư liệu thiếu; trước đây, việc ban hành các văn bản về quy hoạch đất đai chậm, thiếu các văn bản về hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, xử lý vi phạm dẫn đến công tác quản lý đất đai và giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai gặp nhiều khó khăn.
Công tác lưu trữ tư liệu địa chính chưa tốt nên việc tra cứu gặp nhiều khó khăn.
Công tác quản lý đất đai ở một số nơi chưa được quan tâm đúng mức, đối với cấp huyện, xã là nơi trực tiếp với người dân thì trình độ, năng lực cán bộ còn hạn chế, cơ cấu, tổ chức hay bị thay đổi.
- Về chính sách, pháp luật:
+ Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 1998 của Chính phủ quy định về việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, khi thực hiện đã gặp nhiều khó khăn như:
Điều 6 quy định điều kiện được đền bù về đất, Điều 7 quy định người không được đền bù thiệt hại về đất. Việc liệt kê các trường hợp được đền bù tại Điều 6 chưa đầy đủ và việc quy định thế nào là sử dụng ổn định chưa rõ ràng cho nên dẫn đến tình trạng cơ quan nhà nước thì áp dụng Điều 7 để giải quyết (chỉ hỗ trợ, không đền bù) còn người dân thì theo Điều 6 để đòi được đền bù.
Việc quy định đền bù thiệt hại đối với đất ở thuộc khu vực nông thôn quy định: “người bị thu hồi đất được đền bù bằng đất có cùng mục đích sử dụng, trường hợp không có đất để đền bù thì đền bù bằng tiền”. Thực tế nhiều nơi quỹ đất công ích không có, do vậy các địa phương không giao đất khác mà đền bù bằng tiền, khung giá của Nhà nước thấp hơn so với thực tế, vì vậy mà người dân không đủ điều kiện để tái tạo lại cuộc sống. Nhiều nơi quy hoạch khu tái định cư thu hồi đất, sau đó đầu tư cơ sở hạ tầng bán với giá cao, nhiều người không đủ tiền mua lại nhà hoặc nền nhà.
+ Việc quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai hiện nay có hai con đường: một là cơ quan hành chính giải quyết, hai là Toà án (Toà Dân sự hoặc Toà Hành chính), tuy nhiên về bản chất đều phải xem xét về quyền sử dụng đất, nhưng việc áp dụng pháp luật để giải quyết cũng có khác nhau trong việc giải quyết cùng một vụ việc giữa cơ quan hành chính và Toà án (Công văn số 169/2002/KHXX ngày 15 tháng 11 năm 2002 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn Toà án nhân dân các cấp về đường lối giải quyết các khiếu kiện, tranh chấp đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng). Việc hướng dẫn thẩm quyền giải quyết giữa cơ quan hành chính và Toà án còn chưa cụ thể, chưa rõ ràng dẫn đến tình trạng đùn đẩy giải quyết giữa Toà án và cơ quan hành chính.
- Về phía người đi khiếu kiện:
+ Nhiều vụ việc tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai mặc dù các cấp, các ngành ở Trung ương và địa phương đã nỗ lực cố gắng vận dụng chính sách giải quyết có lý, có tình, phù hợp với tình hình thực tế và đúng với quy định của pháp luật, đã được đối thoại trực tiếp nhiều lần nhưng do nhiều động cơ khác nhau người khiếu nại vẫn cố tình đeo bám, khiếu kiện và làm cho tình hình trở nên phức tạp hơn.
+ Một số đối tượng đi khiếu nại có hành vi vượt quá giới hạn, vi phạm pháp luật, lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo đã có hành vi quá khích gây mất trật tự an toàn công cộng, ảnh hưởng đến công tác và hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước và tình trạng người khiếu nại gửi đơn tràn lan, vượt cấp đến nơi không có thẩm quyền giải quyết vẫn diễn ra phổ biến.
2. Một số kinh nghiệm rút ra từ việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai thời gian qua.
2.1. Kinh nghiệm chung
a) Tập trung xử lý số đơn thư tồn đọng
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 89/TB-VPCP ngày 19 tháng 3 năm 2009 của Văn phòng Chính phủ và Kế hoạch số 319/KH-TTCP ngày 20 tháng 02 năm 2009 của Thanh tra Chính phủ về rà soát các vụ việc khiếu nại, tranh chấp đất đai tồn đọng, bức xúc, kéo dài, các cơ quan giải quyết khiếu nại về đất đai cần:
- Cơ quan Thanh tra và cơ quan Tài nguyên và Môi trường ở từng cấp phối hợp rà soát các đơn thư hiện có, tập trung giải quyết dứt điểm những đơn thư chưa giải quyết và những đơn thư đã giải quyết nhưng chưa phù hợp với pháp luật và tình hình thực tế. Bảo đảm tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là về thẩm quyền và thời hạn giải quyết. Khắc phục có hiệu quả tình trạng cơ quan có thẩm quyền và trách nhiệm giải quyết nhưng đã không giải quyết, dẫn tới khiếu nại vượt cấp. Những cơ quan, địa phương có nhiều đơn, thư tồn đọng hoặc có nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo cần được xem xét, xử lý trách nhiệm của người đứng đầu.
- Đối với đơn thư thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, kể cả khiếu nại về bản án, đề nghị Toà án giải quyết dứt điểm theo quy định. Sớm ban hành Thông tư liên tịch giữa Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tài nguyên và Môi trường về giải quyết tranh chấp đất đai nhằm phân định rõ ranh giới giải quyết giữa hệ thống hành chính và hệ thống toà án, quy định trình tự, thủ tục khi người khiếu nại, tố cáo chuyển thủ tục của mình từ hệ thống hành chính sang hệ thống toà án (Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chuẩn bị dự thảo từ lâu nhưng các cơ quan có liên quan chậm có ý kiến cuối cùng để ký ban hành).
- Những đơn thư đã được các cơ quan hành chính hoặc tòa án giải quyết đúng pháp luật và đã vận dụng pháp luật phù hợp với thực tế mà người khiếu nại vẫn không đồng ý thì tổ chức đối thoại để thuyết phục người khiếu nại chấp hành. Trường hợp người khiếu nại vẫn cố tình không chấp hành và có hành động kích động, gây rối thì cần áp dụng các biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật.
b) Hạn chế phát sinh đơn thư mới
Hạn chế phát sinh đơn thư mới phải được đặt thành một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công tác quản lý đất đai. Nhiệm vụ này có liên quan chặt chẽ đến việc tổ chức thi hành và chấp hành pháp luật đất đai. Các địa phương tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác quản lý và sử dụng đất đai, thường xuyên kiểm tra, thanh tra, phát hiện, chấn chỉnh những yếu kém, xử lý nghiêm, kịp thời, đúng pháp luật các trường hợp vi phạm; tập trung kiểm tra, thanh tra, chấn chỉnh vào các công việc sau:
- Việc thực hiện các quy định về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án;
- Việc giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
- Việc sử dụng đất của các dự án được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất;
- Việc thi hành chế độ công vụ của cán bộ, công chức, nhất là những người có thẩm quyền và trách nhiệm trực tiếp giải quyết các thủ tục hành chính về đất đai.
c) Đổi mới tổ chức, cơ chế giải quyết khiếu nại
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thường trực Bộ Chính trị tại Công văn số 5077-CV/VPTW ngày 22 tháng 5 năm 2008 và của Thủ tướng Chính phủ tại Văn bản số 5748/VPCP-KNTC ngày 01 tháng 9 năm 2008, Thanh tra Chính phủ đang phối hợp với các bộ, ngành xây dựng mô hình thí điểm cơ quan tài phán hành chính trong lĩnh vực đất đai lồng ghép trong Đề án tài phán hành chính. Đề án này có mục đích đổi mới cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính bằng tài phán hành chính nói chung và trong giải quyết khiếu nại về đất đai nói riêng.
d) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự giám sát của cơ quan dân cử
Sự lãnh đạo của Đảng luôn là nhân tố bảo đảm thắng lợi trong mọi lĩnh vực công tác. Công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo đang là khâu yếu, bức xúc, vì vậy cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt và có hiệu quả của các cấp uỷ đảng.
Mặt khác, đề nghị Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp tăng cường giám sát việc thi hành pháp luật về đất đai và pháp luật về khiếu nại, tố cáo, bảo đảm pháp luật về đất đai và pháp luật về khiếu nại, tố cáo được thi hành nghiêm chỉnh.
e) Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra
Các cơ quan Thanh tra về Tài nguyên và Môi trường cần tập trung thanh tra trách nhiệm quản lý Nhà nước về tài nguyên và môi trường tại các địa phương nhằm phát hiện, chấn chỉnh những yếu kém, xử lý nghiêm, kịp thời, đúng pháp luật các trường hợp vi phạm.
2.2. Kinh nghiệm trong giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai ở đồng bằng sông Cửu Long
Người dân ở đây chủ yếu sống bằng canh tác nông, lâm, ngư nghiệp nên đất đai không những vừa là tư liệu sản xuất chính mà còn là tài sản có giá trị nhất của họ.
Những năm gần đây, trước áp lực tăng trưởng kinh tế của vùng và chỉ tiêu phần trăm tăng trưởng kinh tế hàng năm của từng địa phương, buộc các địa phương phải đưa ra các chiến lược chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tăng tỷ trọng công nghiệp, thương mại, dịch vụ trong cơ cấu tổng sản phẩm của từng địa phương. Các chính sách thu hút đầu tư mở rộng các khu công nghiệp, khu kinh tế, các dự án sản xuất nuôi trồng thủy sản, lâm sản được các địa phương đặc biệt quan tâm. Đi liền với sự phát triển này, thì thách thức đặt ra đối với các địa phương là việc thu hồi đất, đền bù, giải toả, hỗ trợ tái định cư... Đây cũng là một trong những lĩnh vực có tỷ lệ đơn khiếu nại cao hiện nay đối với các địa phương trong khu vực nói chung và Đồng Tháp nói riêng.
Nhìn lại những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình tranh chấp, khiếu kiện diễn biến rất phức tạp nhất là ở lĩnh vực đất đai; công tác giải quyết tranh chấp, khiếu kiện còn nhiều bất cập, tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm còn xảy ra ở nơi này, nơi khác, nhiều đơn thư để tồn đọng quá hạn, một số Quyết định giải quyết tranh chấp đã có hiệu lực pháp luật từ nhiều năm nhưng chưa được thi hành; kết quả giải quyết chỉ đạt 60 - 70%. Đến khi có Nghị định số 89/CP ngày 07/8/1997 của Chính phủ về việc Ban hành Quy chế tổ chức tiếp công dân và Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998, tình hình tranh chấp, khiếu kiện có phần giảm về mặt số lượng nhưng về tính chất và mức độ vẫn còn gay gắt, phức tạp; kết quả giải quyết có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, lượng đơn thư tồn đọng vẫn còn ở mức cao, tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp đến các cơ quan Trung ương, Tỉnh ủy, UBND tỉnh và nhà riêng của các đồng chí lãnh đạo tuy có giảm, song vẫn còn xảy ra; kỷ cương, kỷ luật hành chính trong công tác giải quyết tranh chấp, khiếu kiện đôi khi chưa nghiêm, có nơi, có lúc còn buông lỏng.
Năm 2008, tình hình khiếu nại về đất đai ở các tỉnh Nam bộ diễn ra khá gay gắt, tình trạng khiếu nại vượt cấp kéo đông người về các cơ quan Trung ương khá phổ biến ở nhiều địa phương trong khu vực. Trong đó chủ yếu là khiếu nại đòi lại đất trước đây đưa vào các tập đoàn, hợp tác xã; đất có nguồn gốc chưa đảm bảo tính pháp lý (đã được cấp nhưng chưa làm đầy đủ các thủ tục theo quy định) nay thu hồi lại; khiếu nại giá đất, loại đất, bồi thường, tái định cư chưa thoả đáng khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng... Riêng ở Đồng Tháp thời gian qua cũng phát sinh một số vụ việc khiếu nại bức xúc phức tạp, đông người, kéo dài, điển hình như: vụ tranh chấp đất tràm ở vườn Quốc gia Tràm Chim, huyện Tam Nông; vụ tranh chấp đất tràm ở nông trường Gáo Giồng, huyện Cao Lãnh, vụ tranh chấp ở Cồn Tân Long, huyện Thanh Bình, vụ tranh chấp ở Khu kinh tế cửa khẩu Thường Phước, huyện Hồng Ngự...
Nguyên nhân chính của việc khiếu kiện, tái khiếu, khiếu tố vượt cấp, đông người là do các địa phương khi thu hồi đất chỉ chú trọng đến việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và chi hỗ trợ một phần để đào tạo, chuyển đổi việc làm cho người bị thu hồi đất, chứ chưa quan tâm đầy đủ đến các chính sách chăm lo đời sống cho người dân sau khi bị thu hồi đất. Bên cạnh đó, do vai trò trách nhiệm Thủ trưởng các cấp, các ngành và đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác giải quyết tranh chấp, khiếu kiện có những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu; việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đất đai nhất là ở cơ sở còn nhiều thiếu sót, bất cập; các yếu kém về tổ chức bộ máy, năng lực cán bộ, công chức, quan điểm vận dụng pháp luật còn máy móc, thiếu thực tiễn; giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện đôi khi không kịp thời, chưa chú trọng đến quyền lợi chính đáng của người dân, gây bức xúc cho nhân dân dẫn đến khiếu kiện. Thủ tục hành chính còn rườm rà, chồng chéo, bất cập, thiếu đồng bộ, vấn đề xung đột thẩm quyền đối với những tranh chấp khiếu kiện về đất đai đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trước 15/10/1993...Ngoài ra do công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn nhiều hạn chế. Do vậy, nhận thức và hiểu biết pháp luật của công dân về quan hệ sở hữu đất đai còn sai lệch nên dễ bị kích động, lôi kéo, xúi giục khiếu kiện.
Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đồng Tháp đã ban hành Chỉ thị số 03 CT/TU ngày 08/3/2001 về việc tăng cường giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, đồng thời tổ chức quán triệt và thực hiện một số văn bản chỉ đạo của Trung ương về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. UBND tỉnh cũng ban hành các Chỉ thị nhằm chấn chỉnh và tăng cường trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và các văn bản quy phạm pháp luật khác làm cơ sở để giải quyết các khiếu nại về đất đai (như khung giá đất, chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư...)
Từ việc tổ chức thực hiện nghiêm các chỉ đạo nói trên, vai trò trách nhiệm của Thủ trưởng các ngành, các cấp và ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đã được nâng lên, giải quyết kịp thời các khiếu kiện phát sinh trong thời gian luật định, nhất là đối với các vụ khiếu kiện bức xúc, phức tạp, đông người, kéo dài. Các cơ quan, tổ chức ngày càng xác định rõ hơn trách nhiệm của mình thể hiện qua việc xây dựng quy chế, quy ước phối hợp giải quyết tranh chấp, khiếu kiện theo thẩm quyền. Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật được tăng cường, xác định kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo là tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ. Đến nay công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo cơ bản đã đi vào nề nếp, tỷ lệ giải quyết hàng năm luôn đạt trên 80%, số đơn tồn đọng cũng giảm đến mức thấp nhất, từ đó đã góp phần ổn định tình hình an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh, góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương ngày càng phát triển.
Từ thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại ở Đồng Tháp trong thời gian qua, có thể nêu lên một số kinh nghiệm trong giải quyết khiếu nại đông người như sau:
- Khi có khiếu kiện đông người lên Trung ương thì Chủ tịch UBND các địa phương phải trực tiếp chỉ đạo, nếu vì lý do bất khả kháng thì cần bố trí người có trách nhiệm để trực tiếp đối thoại với công dân, trong các trường hợp cần thiết thì phối hợp với cơ quan có thẩm quyền sở tại có biện pháp hành chính để buộc công dân phải chấp hành và trở về địa phương, chấm dứt tình trạng phó mặc cho các cơ quan Trung ương và trụ sở tiếp công dân. Việc giải quyết khiếu nại phải đảm bảo trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Đối với các vụ việc còn tồn đọng, hiện đang khiếu vượt cấp, đông người, Uỷ ban nhân dân các địa phương phải nhanh chóng tổ chức thống kê lại trên cơ sở đó phối hợp với các ngành của tỉnh, với các bộ, ngành chức năng của Trung ương đề ra biện pháp giải quyết tổng thể phù hợp với thực tế tại địa phương mình kể cả các biện pháp cần sự hỗ trợ của Chính phủ thì trình Chính phủ có ý kiến cho phép địa phương thực hiện (như tạo quỹ đất, điều tiết đất của các nông lâm trường, đất đang sử dụng không hiệu quả, đất cấp, cho thuê, cho mượn có nguồn gốc không hợp pháp...v.v). Trong quá trình giải quyết nếu có khó khăn thì phối hợp với các bộ, ngành Trung ương thống nhất biện pháp giải quyết để công dân chấm dứt khiếu kiện.
- Các địa phương phải công khai, nhất quán các quy hoạch, tránh mâu thuẫn giữa các quy hoạch tổng thể, quy hoạch xây dựng, quy hoạch sử dụng. Bên cạnh đó, phải quy định rõ quyền lợi người dân sống trong vùng quy hoạch nhưng chưa thực hiện quy hoạch để người dân yên tâm. Trong thực tế nhiều công dân vừa qua trong diện này khiếu nại vì không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, lo lắng không được bồi thường, không được tái định cư... Có chính sách ưu đãi hơn đối với những hộ dân bị thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, vận dụng linh hoạt các chính sách về giá, hỗ trợ tái định cư, hỗ trợ tạo công ăn việc làm để các hộ dân an tâm ổn định đời sống. Khuyến khích nhà đầu tư đào tạo nghề, thu hút lao động, ưu tiên cho những người lao động bị thu hồi đất. Đối với các dự án phát triển kinh tế, nên có tổ chức tư vấn cho người dân trong đàm phán với các nhà đầu tư, về giá trị tài sản giao dịch, nên khuyến khích các nhà đầu tư thoả thuận cho người dân góp vốn cổ phần đối với tài sản, đất đai (hoặc thuê) để người dân được trực tiếp tham gia vào dự án. Như vậy, Nhà nước vừa giảm được chi phí đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp cho người dân, vừa giúp người dân sử dụng nguồn vốn của mình có hiệu quả và cộng đồng trách nhiệm với các nhà đầu tư, xoá bỏ phân biệt đối xử và rút ngắn chênh lệch giàu nghèo và ổn định đời sống cho người dân bị thu hồi đất.
- Hàng năm, các địa phương cần ban hành quyết định quy định giá đất tại địa phương sát đúng với giá thị trường để người dân thực hiện đúng nghĩa vụ đóng thuế sử dụng đất. Trước đấy chúng ta thường có chính sách nhẹ thu đối với người dân nên khi định giá đất để thu thuế sử dụng đất không sát đúng, thường thấp hơn giá trị thực tế, do vậy nhà nước không những bị thất thu về thuế, mà người dân bị thu hồi đất lại khiếu nại về việc giá đền bù thấp, không đúng giá thực tế gây khó khăn cho việc giải phóng mặt bằng giao đất cho các dự án.
Có thể thấy, các vụ khiếu kiện đông người xẩy ra trong thực tế của các địa phương thường gặp là các khiếu kiện liên quan đến vấn đề quy hoạch, đền bù, giải toả khi Nhà nước thu hồi đất phục vụ cho các công trình công cộng, lợi ích quốc gia, an ninh quốc phòng v.v. Tuy nhiên, không phải vụ khiếu kiện đông người nào các cá nhân trong đoàn khiếu kiện cũng đồng nhất về những đòi hỏi phải được giải quyết, hoặc quyền lợi mà họ được thụ hưởng do việc giải quyết của các cơ quan có thẩm quyền đem lại. Bởi khi có phương án thu hồi đất của Nhà nước thì các cá nhân có đất bị thu hồi trong phạm vi dự án không có cùng diện tích, loại đất, hạng đất giống nhau, tài sản trên đất cũng khác nhau, nên quyền lợi của họ khi được bồi thường sẽ khác nhau. Việc liên kết với nhau để khiếu kiện đông người khi việc đền bù của Nhà nước không thoả mãn đòi hỏi của họ là nhằm gây áp lực với các cơ quan chức năng, và chính quyền địa phương để được sớm giải quyết, mối liên kết này chỉ mang tính nhất thời. Trong số này có người đòi hỏi về giá, có người yêu cầu chính sách tái định cư, có người yêu cầu về đo đếm số lượng tài sản trên đất, loại đất .v.v. Do vậy, việc giải quyết các khiếu kiện đông người không nên thực hiện theo hình thức yêu cầu cử người đại diện của đoàn khiếu kiện đông người tiếp xúc và làm việc với các cơ quan có thẩm quyền giải quyết như trước đây nhiều địa phương đã thực hiện. Bởi vì, trên thực tế quyền lợi và sự đòi hỏi giải quyết của các thành viên trong đoàn khiếu kiện là khác nhau, không loại trừ lý do người đại diện lúc nào cũng đặt lợi ích của họ lên trên tất cả trong quá trình thương thuyết giải quyết vụ việc. Nên mặc dù các cơ quan có thẩm quyền giải quyết có thể thương lượng được đối với người đại diện ở một mức độ nào đó nhưng khi tập thể đoàn khiếu kiện không thống nhất thì lại phải thương lượng lại từ đầu. Làm như vậy vừa mất thời gian lại không giải quyết được hết các yêu cầu khiếu nại, vì một số người không trực tiếp đề đạt được yêu cầu của họ, nên càng bức xúc gây mất trật tự, thậm chí quá khích gây rối, làm cho khiếu kiện có thể trở thành “điểm nóng”... Do đó, mọi khiếu kiện đều phải được giải quyết theo các quy định của pháp luật, với cách thức và biện pháp thích hợp. Vấn đề ở đây là việc các cán bộ trực tiếp thụ lý giải quyết phải vận dụng linh hoạt phương pháp giải quyết thích hợp với từng loại đối tượng khiếu kiện và nội dung khiếu kiện. Ngay khi có vụ việc khiếu kiện đông người phát sinh, các cơ quan chức năng, có thẩm quyền nhanh chóng phối hợp với chính quyền địa phương nơi xẩy ra khiếu kiện đông người tiến hành tiếp xúc với từng cá nhân và yêu cầu họ thực hiện đơn khiếu nại của mình theo quy định của pháp luật để thụ lý giải quyết thành vụ việc riêng lẻ. Khi cán bộ thụ lý đã tiếp nhận đơn khiếu nại của từng thành viên trong đoàn kiếu kiện, thì họ sẽ yên tâm chờ được xem xét, giải quyết. Sau khi tiếp xúc, phân tích nội dung yêu cầu trong các khiếu nại của từng thành viên trong đoàn khiếu kiện đông người, cán bộ thụ lý phân loại các khiếu nại có cùng nội dung thành từng nhóm để tiến hành tiếp xúc, xác minh, từng trường hợp cụ thể đối chiếu với các văn bản quy định của Nhà nước để đề xuất giải quyết đúng chính sách, pháp luật nhằm chấm dứt khiếu kiện. Người giải quyết khiếu kiện phải làm tốt công tác tiếp xúc để công tác giải quyết được thuận lợi, đạt hiệu quả cao, hạn chế khiếu kiện tiếp theo. Việc giải quyết của các cơ quan chức năng, của các cấp chính quyền phải đảm bảo tính thống nhất trong việc áp dụng các chủ trương, chính sách, các văn bản pháp luật làm căn cứ giải quyết. Không nên vận dụng để giải quyết một vài trường hợp cá biệt gây bất bình trong đám đông và làm phát sinh những khiếu kiện khác đối với các trường hợp đã giải quyết trước đó.
Ngoài ra, để hạn chế khiếu nại kéo dài, phức tạp, vượt cấp, đông người chúng ta cũng cần phải thực hiện nghiêm túc các yêu cầu sau:
Một là, phải tăng cường công tác tiếp dân, đối thoại với công dân để khi giải quyết đảm bảo chính xác, khách quan có tình, có lý và có tính thuyết phục cao. Đối với những trường hợp đã giải quyết thoả đáng, đúng chính sách, đúng pháp luật, thì các cơ quan chức năng, có thẩm quyền phải phối hợp với các cơ quan, đoàn thể và nhân dân địa phương giải thích, động viên, thuyết phục họ thực hiện và chấm dứt khiếu nại. Đối với những người có vai trò chủ chốt trong các đoàn khiếu kiện đông người nếu cố tình lợi dụng khiếu nại để kích động, lôi kéo khiếu nại trái pháp luật thì phải kiên quyết xử lý theo quy định.
Hai là, phải nắm chắc tình hình tranh chấp, khiếu kiện trong phạm vi quản lý của ngành, địa phương mình để kịp thời giải quyết, nhất là những vụ khiếu kiện đông người; việc giải quyết phải được thực hiện ngay từ cơ sở, hạn chế khiếu nại vượt cấp; không để vụ việc diễn biến phức tạp trở thành khiếu kiện đông người.
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với thủ trưởng các cấp, các ngành trong việc chấp hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Kiên quyết xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thiếu trách nhiệm trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và những người lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để kích động, lôi kéo gây rối làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Bốn là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật để nâng cao nhận thức, hiểu biết về pháp luật cho công dân để họ thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đúng quy định của pháp luật; hạn chế khiếu kiện không đúng cơ quan thẩm quyền giải quyết khiếu kiện đông người, vượt cấp trái với quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo nhằm góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
Phần thứ hai
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI VÀ TRÌNH TỰ, THỦ TỤC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI
I. KHÁI QUÁT VỀ CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI
1. Chủ trương, chính sách của Đảng về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
Khiếu nại, tố cáo là quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp, là công cụ pháp lý để công dân bảo vệ quyền và lợi ích của mình khi bị xâm phạm, là biểu hiện của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Khiếu nại, tố cáo là một kênh thông tin khách quan phản ánh việc thực thi quyền lực của bộ máy nhà nước, phản ánh tình hình thực hiện công vụ của cán bộ, công chức. Do đó, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo không những có vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước, mà còn thể hiện mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Thông qua giải quyết khiếu nại, tố cáo, Đảng và Nhà nước kiểm tra tính đúng đắn, sự phù hợp của đường lối, chính sách, pháp luật do mình ban hành, từ đó có cơ sở thực tiễn để hoàn thiện sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước. Vì vậy, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là một vấn đề được Đảng, Nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm. Để việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đúng pháp luật, góp phần phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức và tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc hơn trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, Nhà nước ta đã ban hành Luật Khiếu nại, tố cáo. Luật này đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2004, 2005. Để phát huy và nâng cao trách nhiệm trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của cả hệ thống chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 6-3-2002 về một số vấn đề cấp bách cần thực hiện trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay.
Tranh chấp, khiếu kiện đất đai đang là một thách thức đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc giải quyết dứt điểm, có hiệu quả vấn đề này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc duy trì sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trong cả nước và ở từng địa phương. Muốn vậy việc tìm hiểu nhận dạng các nguyên nhân phát sinh (trong đó có những nguyên nhân có tính lịch sử) tranh chấp, khiếu kiện đất đai kéo dài là rất cần thiết trong nỗ lực tìm kiếm, xác lập cơ chế thích hợp để giải quyết dứt điểm, triệt để loại tranh chấp này;
Đổi mới công tác giải quyết tranh chấp đất đai, khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai. Tiếp nhận ý kiến phản hồi từ tổ chức, cá nhân để hoàn thiện và xây dựng hệ thống quản lý đất đai (thể chế, bộ máy tổ chức).
2. Các văn bản, quy định pháp luật hiện hành của Nhà nước về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
a) Văn bản do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành
- Bộ Luật Dân sự 2015
- Luật Khiếu nại, tố cáo
- Luật Tố tụng dân sự 2015
- Luật Đất đai 2013
- Luật Thanh tra
- Luật Nhà ở2014
3. Những ưu điểm, nhược điểm, hạn chế của các quy định pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
- Hệ thống pháp luật quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo thiếu đồng bộ. Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật Đất đai có các quy định không thống nhất trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Cho đến nay, vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về mối quan hệ trong giải quyết khiếu nại, tranh chấp giữa cơ quan hành chính và toà án nhân dân, giữa Bộ quản lý chuyên ngành và Thanh tra Chính phủ. Thẩm quyền giải quyết giữa cơ quan hành chính và cơ quan toà án chưa cụ thể, rõ ràng nên nhiều trường hợp người dân phải đi lại nhiều lần giữa Toà án nhân dân và Ủy ban nhân dân nhưng vẫn không được tiếp nhận để giải quyết.
- Công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tổ cáo về đất đai chính là tính chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, còn nhiều điểm có xung đột trong toàn hệ thống pháp luật nước ta. Riêng quy định về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai cũng có nhiều điểm khác nhau giữa pháp luật về đất đai và pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Về việc thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng, có sự khác nhau giữa Luật Xây dựng và Luật Đất đai. Về tính hợp luật của các loại hợp đồng, giấy tờ chuyển quyền sử dụng đất trước ngày Luật Đất đai năm có hiệu lực thi hành, có sự khác nhau giữa pháp luật về đất đai và pháp luật về dân sự. Tình trạng pháp luật như vậy đã dẫn đến cách hiểu khác nhau trong áp dụng pháp luật của các cơ quan hành chính cũng như các cơ quan bảo vệ pháp luật.
- Cơ chế chuyển phần lớn việc giải quyết khiếu nại về địa phương có ưu điểm là tăng cường trách nhiệm giải quyết của cấp có thẩm quyền quản lý đất đai nhưng lại có nhược điểm là không đáp ứng được nguyện vọng của người có đơn khiếu nại là muốn được cấp có thẩm quyền ở Trung ương ra quyết định cuối cùng để bảo đảm tính khách quan. Đây cũng chính là nguyên nhân gây nên tình trạng khiếu kiện vượt cấp lên Trung ương ngày càng tăng.
- Cơ chế chuyển toàn bộ vụ việc tranh chấp đất đai có giấy tờ sang toà án nhân dân, khuyến khích chuyển khiếu nại về quyết định hành chính, hành vi hành chính sang khởi kiện lên toà án hành chính có ưu điểm là nâng cao hiệu lực của Nhà nước pháp quyền nhưng lại bất cập ngay với thực tế giải quyết của toà án nhân dân do trình độ chưa cao, thiếu nhân lực và toà án nhân dân chưa thực sự độc lập với cơ quan hành chính cùng cấp.
- Luật Khiếu nại, tố cáo là luật chung và quy định trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại các quyết định hành chính và hành vi hành chính cho tất cả các lĩnh vực thuộc quản lý hành chính. Tuy nhiên, theo Luật Đất đai , các khiếu nại về quyết định hành chính và hành vi hành chính trong lĩnh vực đất đai được giải quyết theo một cơ chế riêng, không theo trình tự được quy định trong Luật Khiếu nại, tố cáo. Điều này có vẻ như nghịch lý, song đây là một thực tế bất cập hiện nay.
Ngoài ra, theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo hiện hành thì khi không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại dù là quyết định giải quyết lần nào, người khởi kiện đều được quyền khởi kiện ra Tòa. Đây là quy định mới, rộng mở hơn để người dân có thể yêu cầu cơ quan tư pháp đứng ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong khi đó, Điểm a Khoản 2 Điều 138 Luật Đất đai lại quy định: “Trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai do Chủ tịch UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khởi kiện tại TAND hoặc tiếp tục khiếu nại đến chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Trong trường hợp khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì quyết định của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là quyết định giải quyết cuối cùng”. Quy định này làm hạn chế quyền khởi kiện của người khiếu nại.
Một sự khác biệt lớn giữa hai luật này là sự khác nhau giữa các quy định về thời hiệu. Theo Điều 31 Luật Khiếu nại, tố cáo, thời hiệu khiếu nại là 90 ngày kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được có hành vi hành chính. Trong trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu, thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại. Tuy nhiên, Điểm b Khoản 2 Điều 138 Luật Đất đai lại quy định thời hiệu khiếu nại quyết định hành chính về quản lý đất đai là 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được có hành vi hành chính đó.
Trên đây là những mâu thuẫn lớn nhất cần sớm được khắc phục giữa Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật Đất đai hiện nay. Để thống nhất các quy định về giải quyết khiếu nại trên từng lĩnh vực, nên chăng, Luật Đất đai cũng như các văn bản pháp luật khác khi ban hành chỉ cần quy định rằng việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại được thực hiện theo Luật Khiếu nại, tố cáo.
- Một số quy định của pháp luật đất đai về tranh chấp mà trong thực tế rất khó áp dụng, ảnh hưởng đến hiệu quả trong giải quyết tranh chấp đất đai trong tình hình hiện nay, và giảm tính pháp chế trong thực thi pháp luật.
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, luôn luôn gắn liền với chủ thể quản lý, sử dụng nhất định và cần phải tôn trọng quá trình quản lý, sử dụng. Trên tinh thần đó, theo chúng tôi việc giải quyết các vụ việc tranh chấp về quyền sử dụng đối với trường hợp không có giấy tờ về QSDĐ cần qui định nguyên tắc chung: Bảo đảm tôn trọng hiện trạng, quá trình sử dụng đất ổn định.
Pháp luật về đất đai không nên và không thể qui định các căn cứ để giải quyết, vì các căn cứ đã nêu không bảo đảm để giải quyết đúng, đầy đủ một vụ việc tranh chấp QSDĐ. Hơn thế nữa, hạn chế sự chủ động, tư duy của các cơ quan có trách nhiệm thẩm tra, xác minh khi buộc phải tuân thủ theo tiêu chí cứng nhắc đã định sẵn.
+ Khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai qui định: Tranh chấp về QSDĐ mà đương sự có Giấy chứng nhận QSDĐ hoặc có một trong các loại giấy tờ qui định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất. Tuy nhiên, nhiều vụ việc tranh chấp QSDĐ nhưng các cơ quan Tòa án khi tiếp nhận vụ việc thuộc thẩm quyền đã hướng dẫn cho công dân khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp Giấy chứng nhận QSDĐ hoặc trong việc ban hành các giấy tờ qui định tại Luật Đất đai năm 2013 (vụ việc tranh chấp dân sự chuyển sang khiếu nại hành chính).
Trong khi đó, các cơ quan hành chính khi tiếp nhận cho rằng: Vụ việc về bản chất là tranh chấp và thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND. Như vậy, qui định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết tưởng rằng đã rõ ràng, nhưng trong thực tế áp dụng lại nảy sinh nhiều bất cập, còn nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau của các cơ quan có thẩm quyền khi tiếp nhận xử lý đơn thư. Từ đó công dân, tổ chức phải đi lại nhiều lần và ít nhiều gây bức xúc, giảm niềm tin của nhân dân và cơ quan Nhà nước.
Do đó, thẩm quyền giải quyết các vụ việc tranh chấp đất đai cần phải qui định một cách rõ ràng hơn, để khi các cơ quan có thẩm quyền giải quyết áp dụng không có “cơ sở, căn cứ” để đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, tạo hiệu ứng không tốt trong việc vận hành bộ máy Nhà nước.
Nói chung, giải quyết tốt, có kết quả một vụ việc tranh chấp QSDĐ là sự hội tụ đầy đủ nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Trong nhiều yếu tố đó, chính sách, pháp luật qui định về giải quyết tranh chấp đất đai nằm trong hệ thống thượng tầng là rất quan trọng, cần phải được sửa đổi kịp thời, đầy đủ. Như thế, mới góp phần giải quyết tốt một trong những quan hệ đất đai đang dược xem là nhạy cảm trong thời điểm hiện nay.
4. Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
Trước thực trạng và nguyên nhân trên đây, để lập lại trật tự, kỷ cương trong việc khiếu nại, tố cáo và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp, khiếu nại trên lĩnh vực đất đai cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
a) Quán triệt những nguyên tắc chung
Khi giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai phải quán triệt các nguyên tắc sau:
- Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nứơc thống nhất quản lý; Nhà nước chỉ giao quyền sử dụng cho công dân; Nhà nước có quyền thu hồi đất và người sử dụng đất được đền bù theo quy định của pháp luật.
- Trong quá trình Cách mạng, theo tình hình cụ thể mà Đảng và Nhà nước có các chủ trương, chính sách đất đai phù hợp. Vì vậy giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo phải căn cứ vào thời điểm phát sinh của vụ việc và chính sách tương ứng của thời kỳ đó.
- Giải quyết các khiếu nại, tranh chấp đất đai trên cơ sở tôn trọng quá trình sử dụng ổn định của các chủ sử dụng đất, không giũ rối, kiên quyết bảo vệ thành quả Cách mạng và lợi ích của người sử dụng đất, đồng thời phải tôn trọng quy hoạch sử dụng đất của chính quyền địa phương.
- Khi giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai nếu phát sinh những vấn đề về kinh tế, lợi ích vật chất ... cần phải đảm bảo lợi ích Nhà nước và quan tâm thích đáng lợi ích của người sử dụng đất .
b) Hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai
Cơ chế giải quyết khiếu nại có liên quan đến đất đai hiện nay, theo Luật Đất đai quy định trường hợp quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là quyết định cuối cùng thì chấm dứt khiếu nại và Luật Khiếu nại, tố cáo quy định chỉ xem xét quyết định cuối cùng của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Do quy định không rõ ràng, nên để phát hiện được quyết định cuối cùng có dấu hiệu vi phạm pháp luật và để được xem xét quyết định đó theo quy định của pháp luật là một việc không dễ dàng. Vừa qua không ít trường hợp quyết định cuối cùng sai không được phát hiện và xử lý kịp thời, có trường hợp nhờ dân lên Trung ương "kêu oan" mới phát hiện được quyết định cuối cùng sai. Luật quy định quyết định cuối cùng có hiệu lực thi hành, có trường hợp khi phát hiện quyết định cuối cùng sai, thì việc đã rồi, như nhà bị đập, đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đã bán, thậm chí có người đã vào tù. Luật Khiếu nại, tố cáo quy định Bộ trưởng Bộ Tài nguyên - Môi trường là người có thẩm quyền xem xét, giải quyết các khiếu nại liên quan đến lĩnh vực đất đai mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Giám đốc Sở hoặc cấp tương đương thuộc UBND cấp tỉnh đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại. Do đó, người khiếu nại lên Bộ Tài nguyên - Môi trường để tiếp khiếu. Theo thống kê từ năm 1999 đến năm 2004, Bộ Tài nguyên - Môi trường nhận 21.632 đơn, số đơn thuộc thẩm quyền xem xét là 4.279 đơn. Bộ phải mất nhiều thời gian xử lý, không đủ sức đáp ứng yêu cầu, làm phức tạp tình hình. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình, gọi là "khiếu kiện vượt cấp" lên Trung ương. Vì thế giải quyết khiếu nại hành chính không có điểm dừng.
Việc mở rộng thẩm quyền để Toà án xét xử khiếu nại hành chính là đúng. Luật Đất đai cũ 2003 tại Điều 138 quy định: Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện giải quyết lần đầu, người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khởi kiện ra Toà án hoặc tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý có quyền khởi kiện ra Toà án. Nhưng người khiếu nại chọn con đường tiếp khiếu đến cơ quan hành chính cấp trên hơn việc khởi kiện ra Toà án, vì ra Toà phải chịu án phí, đủ thủ tục và qua các cấp của Toà xét xử nếu có kháng án. Do đó, hầu hết người khiếu nại quyết định hành chính tiếp khiếu lên cơ quan hành chính có thẩm quyền của cấp trên, hết cấp tỉnh lên cấp Trung ương.
Tình hình trên đang đặt ra sự cần thiết phải đổi mới cơ chế giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai. Phải thể chế hoá đúng đường lối giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo có liên quan đến đất đai mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 khoá IX đã nêu: "Việc giải quyết tranh chấp, trước hết cần tiến hành hoà giải, nếu hoà giải không thành thì đưa ra Toà án giải quyết. Nhà nước quy định thời hiệu và thời hạn giải quyết các khiếu nại không để kéo dài, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là cấp giải quyết cuối cùng các khiếu nại về đất đai trong phạm vi thẩm quyền của các cấp ở địa phương; trường hợp các đương sự không nhất trí với quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì đưa ra Toà án giải quyết. Giải quyết tố cáo về đất đai thì theo pháp luật tố cáo".
Với cơ chế giải quyết trên sẽ đảm bảo giải quyết được khách quan, người giải quyết độc lập với người ra quyết định hành chính, tránh được tình trạng "vừa đá bóng vừa thổi còi", nó càng mở rộng dân chủ hơn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trước pháp luật, người khiếu nại chịu trách nhiệm trước pháp luật khi thực thi quyền khiếu nại, đồng thời buộc cơ quan hành chính và cá nhân có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của chính mình mà phải nâng cao chất lượng khi ban hành các quyết định hành chính.
Việc nghiên cứu thiết lập một cơ chế nào để giải quyết bước tiếp theo trước khi chuyển sang Toà án cũng cần tham khảo thêm kinh nghiệm nước ngoài, xem nên tổ chức thế nào để vừa có hiệu lực, hiệu quả, vừa phù hợp với đặc điểm của nước ta.
Kinh nghiệm cho thấy, việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai thời gian qua hiệu quả nhất là hoà giải, không chỉ chú trọng hoà giải khi phát sinh tranh chấp, mà khi giải quyết khiếu nại tiếp tục hoà giải cũng đạt nhiều kết quả, và cả trong trường hợp Toà án xét xử có nơi hoà giải thành cũng đạt tỷ lệ cao; hoà giải thành càng nhiều càng tốt vì giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai ngoài việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đảm bảo sự ổn định, còn phải tăng cường sự đoàn kết giữa Nhà nước với dân, trong nội bộ nông dân, giữa dân với dân và trong thân tộc
Do đó, khi phát sinh khiếu nại quyết định hành chính của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cần có bước hoà giải tiếp theo, nhưng ở một trình độ tổ chức cao hơn. Hiện nay, trước mắt có thể dựa vào tổ chức ở địa phương đang có chức năng, nhiệm vụ phù hợp với việc hoà giải giữa người khiếu nại và người ban hành quyết định là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, thực hiện chức năng giám sát việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại của Uỷ ban nhân dân, nếu Thường trực Hội đồng nhân dân chủ trì, có sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể, ban ngành hữu quan thì hiệu quả hoà giải sẽ rất tốt. Việc tiếp dân khiếu nại quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện cũng nên giao cho Thường trực Hội đồng nhân dân chủ trì, để thực hiện việc hoà giải; trường hợp Uỷ ban nhân dân giải quyết sai thì yêu cầu xem xét lại; trường hợp giải quyết đúng thì có trách nhiệm giải thích và yêu cầu người khiếu nại thi hành quyết định, qua đó mà đưa rất ít vụ việc sang Toà án giải quyết. Mọi việc đều được giải quyết có hiệu quả ngay tại cơ sở và địa phương là phương án tối ưu trong tình hình hiện nay, có thể ta làm thử một số loại hình tổ chức hoà giải ở một số địa phương để rút kinh nghiệm, hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính đạt hiệu quả cao.
Đi đôi với đổi mới cơ chế giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật đất đai được đầy đủ, hệ thống và đồng bộ; rà soát những quy định chưa phù hợp hoặc những vấn đề mới phát sinh, để kịp thời sửa đổi, bổ sung, tháo gỡ các vướng mắc, chú ý các quy định và ngôn ngữ của luật, văn bản dưới luật phải được thể hiện hoặc giải thích đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, nhất là đối với các vấn đề có liên quan đến tranh chấp, khiếu nại; hướng dẫn để thống nhất nội dung giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai; và có tư vấn về pháp luật nhằm tạo cơ hội để mọi người tiếp cận với pháp luật đất đai hiểu biết, đồng thuận giữa người ra quyết định, người khiếu nại và người giải quyết khiếu nại.
Việc đổi mới cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính có liên quan lĩnh vực đất đai, không những nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại hành chính, phù hợp với xu hướng cải cách hành chính, cải cách tư pháp trong nước, mà còn phù hợp với thông lệ quốc tế, trong tiến trình hội nhập của nước ta hiện nay.
Ngoài ra, có thể thấy cần thực hiện 4 giải pháp đổi mới sau đây để giải quyết tốt vấn đề tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai:
Giải pháp thứ nhất: Cần có hướng dẫn cụ thể, chi tiết về áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai để tránh đi tất cả mọi kẽ hở, xung đột, thiếu đồng bộ trong mọi pháp luật hiện nay có liên quan đến đất đai và giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai.
Giải pháp thứ hai: Cần thiết phải thành lập hệ thống cơ quan tài phán hành chính về đất đai, cơ quan tài phán ở Trung ương trực thuộc Chính phủ, bộ máy tổ chức theo ngành dọc, lực lượng cán bộ có tài và có tâm. Cơ quan tài phán hành chính có trách nhiệm đưa ra quyết định cuối cùng sau khi các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương đã ban hành quyết định giải quyết lần đầu nhưng người có đơn không đồng ý với quyết định đó.
Giải pháp thứ ba: Kiện toàn hơn nữa bộ máy hành chính ở cấp huyện và cấp xã sao cho cán bộ quản lý hiểu được mình chỉ là công bộc của dân, cơ quan hành chính có trách nhiệm trước hết là phục vụ nhu cầu của người dân. Bộ máy hành chính ở địa phương phải hiểu rất rõ pháp luật về đất đai của từng thời kỳ, áp dụng đúng pháp luật hiện hành. Cơ quan hành chính cấp trên thực hiện tốt việc kiểm tra, thanh tra về đất đai để xử lý triệt để những trường hợp gây tham nhũng, lãng phí trong quản lý.
Giải pháp thứ tư: Áp dụng nghiêm pháp luật về đất đai, đặc biệt là các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhằm ngăn chặn những phát sinh mới về tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai theo hướng giảm đầu vào và kiên quyết giải quyết hết các trường hợp tồn đọng.
II. TRÌNH TỰ, THỦ TỤC KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VÀ TRÌNH TỰ, THỦ TỤC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI
1. Trình tự, thủ tục khiếu nại, tố cáo về đất đai
Theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo hiện hành, một vụ việc khiếu nại có thể được giải quyết hai lần ở cơ quan hành chính và người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ việc ra toà án bất kể lần một hoặc lần hai khi không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền của cơ quan hành chính.
Tuy nhiên, điểm a Khoản 2 Điều 138 Luật Đất đai lại quy định: quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng và người khiếu nại không có quyền khởi kiện ra toà. Đồng thời điểm b khoản 2 Luật Đất đai, khoản 3 Điều 64 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP cũng quy định: Trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân. Có thể thấy rằng trong trường hợp này, người khiếu nại chỉ có một lựa chọn là khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra toà án nhưng nếu theo quy định tại khoản 3 Điều 25 của Luật Khiếu nại, tố cáo thì người khiếu nại có quyền lựa chọn hoặc khởi kiện ra toà, hoặc khiếu nại tiếp lên Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, đồng thời trong trường hợp không đồng ý với quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, người khiếu nại vẫn có quyền khởi kiện tiếp ra Toà án.
Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 2 và khoản 17 Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính quy định: Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để tòa án giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong trường hợp giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; gia hạn thời hạn sử dụng đất trong hai trường hợp: thứ nhất, người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện và không tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; thứ hai, người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Như vậy, quy định của Luật Đất đai và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đều quy định theo hướng: trong giải quyết khiếu nại về quản lý đất đai, người khiếu nại chỉ có quyền khởi kiện ra tòa án trong trường hợp đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà không đồng ý với quyết định đó và không tiếp tục khiếu nại lên cơ quan hành chính cấp trên. Vấn đề khởi kiện ra tòa trong trường hợp đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 không được đặt ra.
Như vậy, Luật Khiếu nại, tố cáo tạo ra những cơ chế cho người dân thực hiện quyền khiếu nại để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan công quyền. Tuy nhiên những quy định như trên của Luật Đất đai và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính lại hạn chế quyền này của người khiếu nại.
2. Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà khi bán vượt ủy quyền
Người mua nhà hợp pháp phải ấm ức trả lại nhà vì giao dịch vô hiệu. Cầm được giấy ủy quyền, giấy tờ nhà, ông giám đốc đã bán căn nhà trên lấy 500 triệu đồng.
Nhờ vay vốn nhưng bị bán nhà
Giữa năm 2009, vợ chồng ông D. đã đến công ty của ông C. để nhờ vả. Ông giám đốc này trực tiếp tư vấn: “Muốn vay ngân hàng thì phải làm hợp đồng ủy quyền cho tôi được toàn quyền sử dụng, mua bán căn nhà mà ông đang ở. Thời hạn ủy quyền là 20 năm”. Cảm nhận vị giám đốc này cũng đáng tin tưởng nên ông D. gật đầu. Sau đó, vợ chồng ông D. giao toàn bộ bản chính giấy tờ nhà cho vị giám đốc để vay vốn giúp mình.
Cầm được giấy ủy quyền, giấy tờ nhà, ông giám đốc đã bán căn nhà trên lấy 500 triệu đồng. Đến tháng 7-2009, khi cán bộ phường báo căn nhà đã bị bán thì ông bà D. mới tá hỏa. Hai ông bà vội vàng khởi kiện ông giám đốc, yêu cầu tòa hủy hợp đồng ủy quyền, hủy hợp đồng mua bán nhà.
Ủy quyền vô hiệu
Xử sơ thẩm mới đây, TAND quận Gò Vấp nhận định trước khi ký hợp đồng ủy quyền, giữa nguyên đơn và bị đơn không quen biết hay giao dịch gì. Khi gặp, ý chí của nguyên đơn là ký ủy quyền chỉ nhằm nhờ vay vốn chứ không có ý gì khác. Nhưng sau đó, bị đơn lại bán nhà và không giao tiền cho bên ủy quyền. Như vậy bên được ủy quyền đã vi phạm quy định ủy quyền. Do vậy, hợp đồng ủy quyền vô hiệu.
“Còn phía người mua nhà, dù rằng việc mua bán là hợp pháp. Nhưng theo quy định đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, giao dịch giữa nguyên bị đơn đã vô hiệu thì giao dịch của bị đơn và người mua nhà cũng vô hiệu…” – tòa nhận định tiếp.
Cuối cùng tòa quyết: “Bị đơn phải hoàn trả toàn bộ giấy tờ nhà cho nguyên đơn. Bị đơn phải trả lại số tiền mua bán nhà cho người mua nhà đồng thời phải bồi thường gần 600 triệu đồng phần chênh lệch giá nhà mà bên mua bị thiệt hại. Người mua nhà cũng phải trả lại nhà cho nguyên đơn”.
Người thứ ba… khổ
Sau vụ án, người mua nhà nhiều lần than thở vì bỗng dưng bị vướng vào những việc không hay. Bà này cho hay để bảo vệ quyền lợi của mình, bà đã kháng cáo bản án, yêu cầu tòa phúc thẩm chấp nhận hợp đồng mua bán nhà trước đây của bà. Bà lý giải, dù rằng tòa đã tuyên bị đơn phải trả lại tiền mua bán nhà và phần chênh lệch cho bà nhưng từ khi vụ kiện xảy ra, bị đơn không một lần đến tòa. Khi tòa tuyên án cũng không thấy mặt bị đơn đâu. Bà đã tìm nhưng bị đơn biệt tăm. Như vậy phần án dành cho bà có khả năng khó thực thi nên bà kháng cáo như trên…
Kiểm tra kỹ để tránh rủi ro
Bộ luật Dân sự còn thiếu sót trong việc nghiên cứu một cơ chế riêng bảo vệ cho người thứ ba ngay tình. Những người này mua nhà dựa vào giấy tờ hợp pháp đã được cơ quan thẩm quyền chứng nhận. Cho nên họ bức xúc trong việc phải trả lại nhà đã mua đúng luật cũng là điều không tránh khỏi. Do vậy, vấn đề này cũng cần phải được quan tâm nghiên cứu để đưa ra cách xử lý hợp lý nhất.
Còn hiện nay, để tránh rơi vào trường hợp này thì cách tốt nhất vẫn là người mua nên cẩn thận, đừng ham rẻ và kiểm tra thật kỹ khi mua nhà. Tốt nhất họ nên gặp chủ nhà để hỏi cho rõ ràng trước khi mua dù người bán có giấy ủy quyền hợp pháp hay giấy tờ nhà hợp pháp. Không gì tốt hơn là tự bản thân phải cẩn thận.
Luật sư LÊ VĂN BÌNH, Đoàn Luật sư TP.HCM
SOURCE: BÁO PHÁP LUẬT TPHCM - PHAN THƯƠNG
Trích dẫn từ: http://phapluattp.vn
(MKLAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)
3. Tranh chấp sở hữu nhà được tặng cho ?
Nhà ở từ hồi giải phóng nhưng phải trả lại cho người không ở một ngày nào. Phải xác lập quyền rồi mới được tặng cho.
Cả hai cùng được tặng nhà
Bà H. diễn giải, năm 1968, bà T. ủy quyền giao hai căn nhà này cho một người quen trông coi để bà này đi nước ngoài chữa bệnh. Sau đó thì người quen của bà T. cho ông TH vào ở nhờ. Khi giải phóng, người quen của bà T. cho ông TH tài sản trên.
Tuy nhiên, đến năm 2008, bà T. lại tặng hai căn nhà này cho bà. Sau đó, bà được UBND quận Bình Thạnh cấp giấy tờ nhà. Do vậy, bà kiện đòi ông TH phải trả lại nhà cho bà.
Bỗng dưng mất nhà, ông TH phản đối, cho rằng đúng là hai căn nhà trên trước đây là của bà T. Thế nhưng năm 1968, bà T. đã ủy quyền cho người quen được quyền mua bán, sang nhượng tài sản này. Vì vậy, người quen của bà T. đã cho ông nên không chấp nhận trả lại nhà.
Ông TH cho biết thêm, từ đó đến nay ông đã kê khai và ở trong hai ngôi nhà này mà không có tranh chấp gì. Ông có đủ điều kiện để được cấp giấy tờ nhà nhưng chưa làm vì chưa có tiền.
>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi: 1900.6162
Người đang ở phải trả nhà
Cuối năm 2009, TAND TP.HCM xử sơ thẩm vụ án. Tại tòa, luật sư của ông TH cho rằng hai căn nhà mà ông TH đang ở là tài sản hợp pháp của ông bởi lẽ giấy cho nhận tài sản giữa ông và người quen của bà T. đã được chứng nhận hợp lệ tại thời điểm bấy giờ.
Hơn nữa, theo Nghị quyết 1037 năm 2006 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì ông TH có quyền xác lập quyền sở hữu nên chủ cũ không còn quyền sở hữu để thực hiện các giao dịch khác. Còn việc bà H. mới được cấp giấy tờ nhà là không đúng pháp luật vì theo quy định, chủ cũ căn nhà là bà T. phải xác lập quyền sở hữu rồi mới thực hiện giao dịch. Bà T. đã không có quyền này…
Tuy nhiên, cấp sơ thẩm cho rằng hai căn nhà mà ông TH đang ở không phải do ông tạo lập mà của bà T. Hai căn nhà này hiện tại UBND đã cấp giấy tờ cho bà H. nên đó là tài sản của bà H. Do đó có cơ sở khẳng định hai ngôi nhà trên là của bà H.
Vượt quá ủy quyền(!?)
Đối với giấy ủy quyền của bà T. cho người quen vào năm 1968, tòa cho rằng giấy này có đoạn viết thêm thể hiện rõ không cho phép người quen của bà T. được chuyển quyền hoặc tặng cho hai căn nhà trên. Do đó người quen của bà T. làm giấy cho ông TH hai căn nhà là vượt quá phạm vi ủy quyền.
Phía luật sư của ông TH cho rằng giấy ủy quyền của bà T. cho người quen có quyền bán nhà nên người quen của bà T. cũng có quyền tặng cho. Còn nội dung giấy ủy quyền này có đoạn ghi thêm “không cho chuyển quyền” có nghĩa là không cho ủy quyền lại cho người thứ ba chứ không phải không được quyền mua bán, tặng cho.
Hơn nữa, phía ông TH đang khiếu nại việc cấp giấy tờ nhà cho bà H. và UBND TP đã có văn bản gửi tòa án nói rõ là đang chỉ đạo Thanh tra TP làm rõ vấn đề cấp giấy tờ nhà cho bà H. nhưng tòa vẫn đưa vụ án ra xét xử là chưa có cơ sở vững chắc… Tuy nhiên, những lập luận của luật sư không được tòa chấp nhận.
Cuối cùng, cấp sơ thẩm tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H., buộc ông TH phải trả lại hai căn nhà cho bà H.
Phải xác lập quyền rồi mới được tặng cho
Cấp sơ thẩm nên làm rõ việc cấp giấy tờ nhà cho bà H. vì theo Nghị quyết 1037 năm 2006 thì bà T. hiện đang ở nước ngoài và có quốc tịch nước ngoài trước hết phải xác lập quyền sở hữu hai ngôi nhà trên cho mình, tức là được cấp giấy tờ nhà mang tên mình rồi mới được quyền tặng cho. Thế nhưng vấn đề này tòa chưa làm rõ.
Còn tờ ủy quyền của bà T. cho người quen đoạn cuối ghi thêm là “không được phép chuyển quyền” tôi cũng thống nhất với quan điểm phải hiểu là không cho ủy quyền lại cho một người thứ ba chứ không phải không được quyền mua bán, tặng cho.
Luật sư NGUYỄN THẾ PHONG, Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Long An
SOURCE: BÁO PHÁP LUẬT TPHCM - VĂN ĐOÀN
Trích dẫn từ:http://phapluattp.vn/
(MKLAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)
4. Tranh chấp Biển Đông Nam á thuộc dạng tranh chấp nào theo luật quốc tế ?
Nước nào làm chủ được Biển Đông thì sẽ chi phối được Đông Nam Á và nắm giữ vai trò quan trọng ở Châu Á – Thái Bình Dương. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà Trung Quốc nâng tầm quan trọng của Biển Đông thành an ninh quốc gia và quả quyết là “quyền lợi cốt lõi”, tương đương như những vấn đề Tây Tạng, Đài Loan và Tân Cương. Với lý do đó, một khi quyền lợi này bị đe dọa hay bị can thiệp thì Trung Quốc sẵn sàng dùng sức mạnh quân sự để cưỡng đoạt. Chính những tuyên bố và hành động cứng rắn trong thời gian gần đây của Trung Quốc đã gây quan ngại, không chỉ với các nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông và những nước có quyền lợi hàng hải liên quan, mà với cả toàn thế giới, khi mà những hành động này ảnh hưởng đến an ninh khu vực. Bài viết này sẽ thảo luận về các giải pháp giải quyết tranh chấp Biển Đông đã được đề xuất trong công trình nghiên cứu của Tiến sĩ Vũ Quang Việt. Chúng tôi sẽ bàn sâu hơn đến các vấn đề quan trọng như các nguyên tắc cho việc tìm các giải pháp, đặc tính của các giải pháp, sự phức tạp của vấn đề tranh chấp, đề xướng các giải pháp, …Bài viết sẽ xem xét những yếu tố trên dựa theo chứng cứ lịch sử và công pháp quốc tế. Cuối cùng sẽ tóm lược lại những điểm hợp lý và chưa hợp lý trong công trình nghiên cứu của Tiến sĩ Vũ Quang Việt, đồng thời đề xuất những giải pháp bổ sung cho vấn đề tranh chấp.
1. Sơ lược bài viết của TS Vũ Quang Việt
Công trình nghiên cứu của TS Vũ Quang Việt (“Tranh chấp Biển Đông Nam Á: đi tìm giải pháp hòa bình và công lý dựa trên chứng cứ lịch sử và luật pháp quốc tế” Thời Đại Mới số 19, 7/2010) cho thấy đó là một công trình công phu, tác giả rất tâm huyết với vấn đề mang tính sống còn cho chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Bài viết đã thể hiện sự công tâm và tinh thần công bằng đáng trân trọng, đồng thời thể hiện tinh thần cầu thị cao. Những đức tính đó rất đáng quý trong việc nghiên cứu về tranh chấp Biển Đông. Song, có đôi điều chúng tôi muốn bàn luận thêm về nội dung cũng như một số khía cạnh của bài viết.
Phạm trù của bài viết
Phần lớn Phần II, “Xem xét lại những yêu sách dựa trên ‘chủ quyền lịch sử’ ”, và Phần III, “Bối cảnh: Đi tìm giải pháp hòa bình và công lý” là về đảo, không phải về biển. Tất cả các tiêu đề trong hai phần này là về đảo.
Trên thực tế, tranh chấp đảo chỉ là một cái cớ cho vùng biển lưỡi bò, vì tranh chấp đảo không thể nào gây ra một vùng tranh chấp rộng lớn như thế. Thậm chí, có thể nói rằng Trung Quốc dùng tranh chấp đảo để nguỵ trang và đánh lạc hướng các bên trong cuộc tranh chấp về đường lưỡi bò hoàn toàn vô lý của họ.
Chúng tôi cho rằng bài “Tranh chấp Biển Đông Nam Á: đi tìm giải pháp hòa bình và công lý dựa trên chứng cứ lịch sử và luật pháp quốc tế” tập trung nhiều vào tranh chấp đảo, và như thế là không phản ảnh chính xác thực tế nói trên. Có lẽ đây là một bài viết về tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa hơn là về tranh chấp biển.
Bài viết nhấn mạnh từ “lịch sử”, ví dụ như trọng các cụm từ “chứng cứ lịch sử”, “chủ quyền lịch sử”, nhưng chỉ dùng những từ này để nói về thời đại phong kiến. Theo ý kiến của chúng tôi, dùng từ như thế là không chính xác, vì “lịch sử” phải bao gồm tất cả những gì trong quá khứ, ví dụ như thời đại phong kiến và hậu phong kiến. Phân loại chứng cớ thành “lịch sử” hay “không phải lịch sử” (tức là phong kiến hay không phải phong kiến) cũng không sát với pháp lý quốc tế vì các phiên toà quốc tế không dùng cách phân loại đó.
Phạm trù của bình luận: tranh chấp Trường Sa
Trong tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Đông, thực tế tồn tại ba loại tranh chấp khác nhau:
1. Tranh chấp các đảo Hoàng Sa.
2. Tranh chấp các đảo Trường Sa.
3. Tranh chấp biển và thềm lục địa.
Trong bài này, chúng tôi sẽ chỉ bình luận về những gì TS Vũ Quang Việt viết liên quan đến tranh chấp các đảo Trường Sa. Với phạm trù này, có thể tóm tắt lập luận của tác giả như sau:
1. Không có chứng cớ chứng tỏ rằng các triều đại phong kiến Trung Quốc đã từng tuyên bố hay thực thi chủ quyền trên quần đảo Trường Sa.
2. Năm 1951 là lần đầu tiên Trung Quốc tuyên bố chủ quyền.
3. Gần như không có chứng cớ chứng tỏ rằng các triều đại phong kiến Việt Nam đã từng thực thi chủ quyền trên quần đảo Trường Sa.
4. Năm 1933 Pháp tuyên bố chủ quyền đối với Trường Sa, nhưng có một số vấn đề phức tạp về tuyên bố chủ quyền của Pháp.
5. (Tác giả cho rằng) các đảo Trường Sa chưa chắc có nhiều quyền lợi từ biển, và nếu có thì cũng không thể thực hiện được trước khi giải quyết tranh chấp.
6. Về chủ quyền đối với các đảo Trường Sa, tác giả đề nghị nguyên tắc “Sẽ là một giải pháp công bằng và hợp lý cho tất cả các bên liên quan nếu bỏ sang một bên thế kỉ của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân ở Đông Nam Á (ĐNA)”.
7. Tác giả đưa ra một giải pháp gồm ba bước, bước thứ ba có hai sự lựa chọn về chủ quyền đối với các đảo Trường Sa:
i. Các đảo này là tài sản chung của các nước trong tranh chấp, hay
ii. Nước nào đang chiếm đảo nào thì chủ quyền của đảo đó thuộc về nước đó.
Trong các luận điểm trên, bài viết đã áp dụng nguyên tắc “chứng cớ cho chủ quyền là sự tuyên bố và thực thi chủ quyền ở cấp nhà nước” cho thời kỳ phong kiến. Đó là nguyên tắc đúng. Trong thời kỳ hậu phong kiến, nguyên tắc đó, tuy vẫn đúng, nhưng không đủ bao quát để đánh giá các sự kiện, và bài viết cũng không đánh giá các sự kiện đó một cách chính đáng.
Để minh hoạ, có thể ví bài viết như một quyển sách đi từ chương đầu tiên (áp dụng nguyên tắc pháp lý cho thời đại phong kiến) thẳng đến chương cuối cùng (đưa ra giải pháp) mà thiếu chương giữa (áp dụng nguyên tắc pháp lý cho thời đại hậu phong kiến). Có thể nói rằng, không chỉ thiếu chương giữa mà trong luận điểm thứ 6 tác giả đã đề nghị bỏ qua các sự kiện của chương giữa.
Về luận điểm thứ 4, chúng tôi sẽ phân tích chi tiết về những vấn đề phức tạp tác giả nêu ra trong một phần sau. Qua phân tích, chúng tôi cảm thấy rằng tác giả đã chưa có nhận định chính xác hay chưa lý luận chặt chẽ về một số vấn đề phức tạp đó.
Về luận điểm thứ 5, chúng tôi cho rằng chúng ta cần phải biết các đảo Trường Sa có là của Việt Nam hay không, bất kể các đảo này có thể có nhiều hay có ít quyền lợi, và bất kể chúng ta có thể thực hiện được quyền lợi đó hay không.
Về luận điểm thứ 6, nguyên tắc tác giả đưa ra không phù hợp với luật quốc tế hay tập quán quốc tế. Không những thế mà nguyên tắc này rất có lợi cho Trung Quốc và phương hại đến Việt Nam. Nếu chúng ta phủ định tuyên bố 1933 và các hành đông liên quan của Pháp thì trọng lượng tương đối của tuyên bố chủ quyền 1951 của Trung Quốc sẽ tăng lên rất nhiều. Đó là lý do tại sao các học giả Trung Quốc cố gắng bằng mọi cách để phủ định tuyên bố 1933 và các hành đông liên quan của Pháp, cũng như các hành động thực dân, đế quốc, trong khi luật quốc tế và tập quán quốc tế công nhận những tuyên bố và hành động như thế.
Theo ý kiến của chúng tôi, chúng ta phải áp dụng pháp lý quốc tế, phải lý luận chặt chẽ và phải tôn trọng tất cả các chứng cớ trong lịch sử Trường Sa (bao gồm cả thời đại phong kiến và hậu phong kiến) trước khi có thể đi đến chương cuối về một giải pháp công bằng dựa trên chứng cớ lịch sử và luật pháp quốc tế. Lịch sử là lịch sử, mọi luận chứng và luận cứ lịch sử phải được đối xử như nhau, không thể chỉ chấp nhận lịch sử phong kiến mà bỏ đi phần lịch sử trong thời kỳ thực dân.
Về luận điểm thứ 7, hai sự lựa chọn tác giả đưa ra đều không nhất thiết là công bằng. Những lựa chọn này chỉ công bằng nếu như:
· Khi mỗi nước bắt đầu tranh chấp các đảo Trường Sa thì chúng vẫn còn là đất vô chủ, hay
· luật quốc tế không thể xác định được các đảo Trường Sa thuộc nước nào, hoặc không thuộc nước nào.
Trong bài viết, tác giả chưa chứng minh hai điều trên, cho nên cho rằng những lựa chọn mà tác giả đưa ra là công bằng thì thật là thiếu cơ sở. Ngay cả những vấn đề phức tạp về chủ quyền đối với các đảo Trường Sa mà tác giả nêu ra cũng không chứng minh được hai điều trên, tức là cũng không làm cho hai sự lựa chọn tác giả đưa ra là công bằng. Cụ thể, nếu Trường Sa là của Việt Nam, và chúng tôi tin là như thế, thì hai sự lựa chọn đó đều không công bằng cho Việt Nam.
Qua đó điều chúng ta cần bây giờ là giải pháp giải quyết tranh chấp biển-đảo công bằng cho các bên liên quan.
2. Giải pháp giải quyết tranh chấp Biển Đông
a. Nguyên tắc cho việc đi tìm giải pháp tranh chấp giải quyết tranh chấp Biển Đông
Để có được giải pháp giải quyết cho các tranh chấp lãnh thổ, những yếu tố dưới đây cần được xem xét:
i. Xác định tiêu chí cho sự công bằng nằm ở đâu.
ii. Đi tìm các giải pháp.
iii. Đánh gía mỗi giải pháp qua hai tiêu chuẩn:
· Giải pháp đó nằm cách sự công bằng bao xa và chúng ta có thể chấp nhận khoảng cách đó hay không?
· Tính khả thi của giải pháp đó.
Có thể nói vị trí của sự công bằng là “đường cơ sở” cho việc đi tìm giải pháp. Không có đường cơ sở đó, chúng ta không thể đánh giá bất cứ giải pháp nào. Giả sử chúng ta đưa ra một giải pháp khả thi nhưng chúng ta không biết sự công bằng nằm đâu, tức là không biết giải pháp đó nằm ở đâu so với sự công bằng, thì chúng ta không thể biết giải pháp đó có bất công cho chúng ta hay không, và nếu bất công thì bất công đến mức nào. Nếu không biết thì chúng ta không thể lựa chọn, hay thậm chí đánh giá, giải pháp đó.
Trong tranh chấp lãnh thổ, có nhiều quan điểm khác nhau về sự công bằng. Các phiên toà quốc tế phân xử tranh chấp lãnh thổ, đều rất khách quan, khoa học và tinh tế về sự công bằng. Những phiên toà này nói riêng và pháp lý quốc tế nói chung là thước đo khách quan nhất, khoa học nhất, tinh tế nhất cho sự công bằng trong tranh chấp lãnh thổ.
Vì vậy, tiên đề cho việc đi tìm giải pháp cho tranh chấp lãnh thổ là xác định sự công bằng nằm ở đâu, và để xác định sự công bằng nằm ở đâu thì phải đi sát với pháp lý quốc tế, sát với những nguyên tắc trong các phiên toà quốc tế phân xử tranh chấp lãnh thổ.
Trong tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông, lập luận của Trung Quốc có nhiều màu sắc loè loẹt, ví dụ như Trung Quốc có thể viện dẫn, tuy là một cách mạo nhận và nguỵ biện, tài liệu có từ những triều đại phong kiến cổ xưa và nổi tiếng, như Hán, Đường, Tống, Minh. Điều này làm cho lập luận của Trung Quốc có tính quyến rũ và tính mỵ dân rất cao. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của chúng tôi, các phiên toà quốc tế sẽ loại những tài liệu mơ hồ, không có tính xác lập chủ quyền đó. Nếu đi sát với luật quốc tế thì các tuyên bố và hành động của Việt Nam là chứng cớ mạnh hơn cho việc xác lập chủ quyền.
Vì vậy, các nhà nghiên cứu Việt Nam phải bám sát luật quốc tế: đó vừa là tiêu chuẩn khách quan nhất, khoa học nhất cho sự công bằng, vừa là dao bén để cắt qua những lớp màu sắc loè loẹt, mỵ dân của lập luận của Trung Quốc.
b. Các đặc tính của tranh chấp Biển Đông
Tranh chấp Biển Đông có ba đặc tính:
1. Tồn tại tranh chấp chủ quyền đối với các đảo.
2. Tồn tại tranh chấp chủ quyền và quyền chủ quyền đối với biển và thềm lục địa.
3. Các yếu tố địa – chính trị đặc thù có tác động lên tính khả thi của các giải pháp hay chiến lược khác nhau.
Đặc tính 1 và 2 nằm trong hai phạm trù pháp lý khác nhau. Đặc tính 3 không nằm trong phạm trù pháp lý. Vì vậy, trong phân tích, chúng ta nên tránh đan xen chúng với nhau. Cụ thể:
· Khi phân tích về pháp lý của chủ quyền đối với các đảo thì cần tách biệt với vấn đề phạm vi của các vùng biển thuộc mỗi đảo và realpolik.
· Khi phân tích về pháp lý của phạm vi của các vùng biển thuộc mỗi đảo thì cần tách biệt với vấn đề chủ quyền đối với các đảo và realpolitik.
· Khi một vấn đề nằm trong vùng xám pháp lý thì chúng ta có thể lựa chọn vị trí dựa trên những yếu tố realpolitik.
c. Sự phức tạp về chủ quyền đối với Trường Sa
Trong bài viết, TS Vũ Quang Việt đưa ra một số “vấn đề phức tạp” liên quan đến chủ quyền đối với Trường Sa. Chúng tôi sẽ phân tích những vấn đề đó để thấy rõ ràng rằng chúng có thực sự phức tạp hay không.
Khu vực Trường Sa bao gồm có cả đảo đá nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines theo Luật biển Liên Hợp Quốc 1982. Đây là lý do Phi không thể chấp nhận tuyên bố của Pháp năm 1933. Thêm lý do nữa là khi Pháp tuyên bố chủ quyền thì Phi, Mã Lai v.v. lại chưa phải là những nước độc lập để có tiếng nói.
Luật biển Liên Hợp Quốc (UNCLOS) 1982 chỉ quy định về vùng biển và thềm lục địa nào có thể thuộc về vùng đất nào. UNCLOS 1982 không hề quy đinh gì về vùng đất nào (bao gồm cả đảo và đảo đá) có thể thuộc về nước nào. Việc đảo hay đảo đá của một nước nằm trong một vùng khép kín bên trong vùng đặc quyền kinh tế của một nước khác là một điều hoàn toàn phù hợp với UNCLOS 1982. Nó không thể là lý do hợp pháp để một nước phản đối tuyên bố chủ quyền của một nước khác đối với một đảo.
Trên thực tế, Philippines không phản đối tuyên bố chủ quyền của Pháp đối với Trường Sa năm 1933. Khi Philippines chính thức tuyên bố chủ quyền đối với Trường Sa năm 1971[1], thì Philippines cho rằng Trường Sa là đất vô chủ[2], nhưng họ cũng không nói rằng đó là vì tuyên bố 1933 của Pháp không hợp pháp.
(Có ý kiến cho rằng Philippines đã cho rằng sau Thế Chiến 2 thì Trường Sa là đất vô chủ[3], ví dụ như với lý do trong Hiệp Định San Francisco 1951 Nhật từ bỏ tuyên bố chủ quyền đối với Trường Sa nhưng không nói là trả cho nước nào. Tuy nhiên, luận điểm cho rằng “Trường Sa là đất vô chủ do Nhật từ bỏ tuyên bố chủ quyền đối với Trường Sa, nhưng không nói là trả cho nước nào”, sẽ không hợp lý, vì khi Nhật từ bỏ tuyên bố chủ quyền đối với Trường Sa thì chủ quyền đó sẽ thuộc về nước đã tuyên bố chủ quyền trước khi Nhật chiếm Trường Sa.)
Khi Philippines chính thức tuyên bố chủ quyền đối với Trường Sa vào năm 1971 thì họ cũng không dùng lý do khu vực Trường Sa bao gồm có cả đảo đá nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines theo UNCLOS 1982, đơn giản là vì vào năm 1971 thì UNCLOS 1982 và quy chế vùng đặc quyền kinh tế của nó chưa ra đời. Philippines chỉ nói rằng Trường Sa là đất vô chủ, vì một số đảo nằm gần Philippines, quan trọng cho Philippines, cho nên Philippines tuyên bố chiếm hữu chúng.
Cho tới nay, Toà án Công lý Quốc tế đã phân xử nhiều tranh chấp lãnh thổ liên quan đến những nước đã từng là thuộc địa. Khi xét những sự kiện trong thời kỳ thuộc địa, Toà không dùng lập luận trong thời kỳ đó nước này hay nước kia chưa phải là những nước độc lập để có tiếng nói. Ngược lại, Toà xem các hành vi của các nhà nước thực dân liên quan như hành vi của những nhà nước đại diện hợp pháp cho những nước thụộc địa này.
Trong tranh chấp Trường Sa, việc Philippines, Malaysia và Brunei chưa phải là những nước độc lập vào năm 1933 không phải là vấn đề, vì Toà sẽ cho rằng vào thời điểm đó Mỹ đại diện cho Philippines, Anh đại diện cho Malaysia và Brunei, và sẽ xét các hành vi liên quan của Mỹ và Anh. Ngoài ra, vào năm 1933, Anh và Mỹ cũng không cấm các đại diện bản xứ, ví dụ như các vị sultan, nói với Anh, Mỹ rằng Trường Sa là của họ, nhưng các đại diện bản xứ này đã không nói điều đó.
Pháp lấy lý do Trường Sa là đất vô chủ để tuyên bố chủ quyền năm 1933 thì điều này không hoàn toàn đúng vì Anh là nước đã tuyên bố chủ quyền trước Pháp ở vài hòn đảo trước đó. Năm 1877, chính quyền thuộc địa Anh ở đảo Labuan (một đảo nhỏ, phía bắc Borneo, do Anh mua lại của Brunei năm 1846) đã cấp giấy phép cho một nhóm doanh nhân và cho phép họ cắm cờ Vương quốc Anh lên đảo Spratly (Trường Sa) và đảo Amboyna Cay (An Bang) để hoạt động thương mại. Hai đảo này đã được đăng ký là lãnh thổ Vương quốc Anh trong những hồ sơ chính thức. Lúc đó Anh không chính thức phản đối Pháp vì nhu cầu chống Nhật. Điều viết ra ở đây chỉ nhằm nói tới sự phức tạp của vấn đề chứ không ảnh hưởng gì đến tính hợp pháp về tuyên bố chủ quyền của Pháp.
Khi tồn tại hai nước cùng tuyên bố chủ quyền trên một vùng lãnh thổ thì vùng lãnh thổ đó hoặc là thuộc về nước này, hoặc là thuộc về nước kia, hoặc là nằm trong tình trạng tranh chấp chủ quyền. Theo luật quốc tế, cả ba tình trạng này đều khác với res nullius (đất vô chủ) và ở cả 3 tình trạng này đều không cho phép một nước thứ ba nhảy vào tranh chấp chủ quyền một cách hợp pháp.
Giả sử hành động của Anh năm 1877 có làm cho Trường Sa không còn là đất vô chủ đi nữa, thì điều đó cũng không thành vấn đề. Lý do là nếu thế thì sau khi Pháp tuyên bố chủ quyền năm 1933 Trường Sa sẽ nằm trong một trong 3 tình trạng:
1. Hoặc là thuộc về Anh
2. Hoặc là thuộc về Pháp
3. Hoặc là tình trạng tranh chấp chủ quyền giữa Anh và Pháp
Cả ba tình trạng này đều không phải là res nullius (đất vô chủ), và không cho phép Trung Quốc hay Philippines đòi chủ quyền một cách hợp pháp.
Trên lý thuyết, nếu giả sử như Anh có tranh cãi tranh cãi tuyên bố của Pháp, thì Malaysia có viện hành động của Anh năm 1877 như chứng cớ để đòi chủ quyền.
Nhưng trên thực tế Anh đã không hề tranh chấp Trường Sa với Pháp. Không những Anh không có phản đối chính thức (như tác giả viết), mà còn không có bất kỳ phản đối nào. Không những không có bất kỳ phản đối nào mà trong nội bộ Anh còn cho rằng tuyên bố của Pháp là hợp lý và nói rằng Anh không muốn tranh chấp chủ quyền đối với Trường Sa với Pháp[4]. Mặc dù Anh chưa bao giờ tuyên bố cụ thể rằng họ từ bỏ tuyên bố chủ quyền đối với Trường Sa, chắc chắn 100% là Toà cho rằng hành vi của Anh có nghĩa nước này đã mặc nhiên công nhận trước sự khẳng định chủ quyền của Pháp. Trên thực tế, trong 3 khả năng trên thì khả năng 1 và 3 đã bị loại ra.
Vì vậy, Anh và Malaysia không thể viện hành động của Anh năm 1877 để đòi chủ quyền. Trung Quốc và Philippines thì lại càng không thể viện hành động của Anh năm 1877 để đòi chủ quyền. Trên thực tế, không có nước nào viện hành động của Anh năm 1877 để đòi chủ quyền. Điều đó cho thấy hành động của Anh năm 1877 không làm cho khía cạnh pháp lý của tranh chấp giữa Việt Nam, Trung Quốc, Philippines và Malaysia phức tạp thêm.
Nhân tiện, chúng tôi xin nói thêm về việc nước nào trong tranh chấp có thể viện chứng cớ nào: Hành động có thể được cho là tuyên bố chủ quyền của Anh năm 1877 chỉ cho phép Anh hay nước thừa kế hợp pháp là những nước duy nhất viện nó như chứng cớ để tranh chấp chủ quyền với Pháp. Hành động đó không cho phép Trung Quốc hay Philippines viện nó như chứng cớ trong việc đòi chủ quyền cho các nước này.
Pháp chỉ ghi có 6 đảo, đá ở Trường Sa trong tuyên bố chủ quyền năm 1933. Thực chất là Trường Sa có đến khoảng 170 điểm tự nhiên, với 36 đảo, đá nhỏ tí nhô lên mặt nước, và các bãi cát, v.v. nên ngay việc định nghĩa và xác định nơi cụ thể đã có vấn đề. Vậy chỉ một tuyên bố, liệu Pháp có quyền làm chủ cả những nơi họ chưa biết tới?
Đây là một nghi vấn hợp lý. Chúng ta cần xác định khi mỗi nước tuyên bố về quần đảo Trường Sa ở một thời điểm nào đó thì quần đảo Trường Sa trong tuyên bố đó, vào thời điểm đó, bao gồm những đảo nào, đảo đá nào.
Pháp cũng không có xác định thực hiện chủ quyền trên một vùng biển rộng lớn như thế cho nên Pháp chỉ có thể kiểm soát được đảo Itu Aba là đảo lớn nhất vào năm 1938, sau đó đảo này bị Nhật chiếm, rồi được Nhật trao lại cho Chính phủ Trung Hoa Dân quốc (bây giờ là Đài Loan).
Việc Nhật chiếm Trường Sa là tranh chấp giữa Nhật và Pháp. Nó chỉ có thể hoặc là có, hoặc là không có khả năng làm cho Trường Sa thuộc về Nhật. Nó không hề làm cho Trường Sa thành đất vô chủ hơn, hay thành của Trung Quốc hơn, hay thành của Philippines hơn, hay thành của Malaysia hơn.
Nếu, và chỉ nếu, việc Nhật chiếm đóng và chủ quyền của Nhật ở Trường Sa được công nhận là hợp pháp thì nó mới có thể làm cho Trường Sa thành đất vô chủ hơn (trong trường hợp Nhật từ bỏ chủ quyền hợp pháp của họ mà không nói là cho ai), hay thành của Trung Quốc hơn, hay thành của Philippines hơn, hay thành của Malaysia hơn (nếu như Nhật trao chủ quyền hợp pháp của họ cho những nước này). Đằng này, việc Nhật chiếm Trường Sa không hề được nước nào hay trọng tài quốc tế nào công nhận là hợp pháp. Ngược lại,
- Pháp luôn luôn phản đối Nhật;
- việc Nhật chiếm Trường Sa là một phần của hành vi bị thế giới lên án, và thế giới đã bắt buộc Nhật phải từ bỏ mọi yêu sách, hay quyền, hay chủ quyền đối với Trường Sa trong Hiệp Định San Francisco.
Vì vậy, việc Nhật chiếm Trường Sa từ Pháp không có giá trị pháp lý để làm cho chủ quyền của Nhật vững hơn, hay làm cho Trường Sa trở thành đất vô chủ, hay làm cho Trường Sa bớt thuộc về Pháp, hay làm cho Trường Sa thuộc về Trung Quốc, hay Philippines, hay Malaysia. Tóm lại, việc Nhật chiếm Trường Sa từ Pháp không làm cho khía cạnh pháp lý của vấn đề phức tạp thêm.
Ngược lại, việc Nhật tuyên bố chủ quyền và sau đó chiếm Trường Sa mà chỉ có Pháp phản đối, trong khi Trung Quốc, Mỹ và Anh không hề phản đối, là chứng cớ rằng cho tới ít nhất trước khi Thế Chiến 2 chấm dứt, Trung Quốc, Mỹ và Anh không có tuyên bố hay hành động để khẳng định chủ quyền. Đó là một chứng cớ ủng hộ chủ quyền của Pháp, đại diện cho Việt Nam.
Câu “Nhật trao lại cho Chính phủ Trung Hoa Dân quốc (bây giờ là Đài Loan)” là một lỗi nghiêm trọng.
Trong một bài viết về chủ quyền, từ “trao” không được giới hạn chặt chẽ và rõ ràng thường có nghĩa trao chủ quyền. Nhưng sự thật là không có chuyện Nhật trao Trường Sa hay Hoàng Sa cho Trung Hoa Dân quốc. Không nên lẫn lộn, ngộ nhận hay mạo nhận việc lính Trung Hoa Dân quốc đến đảo Phú Lâm và Ba Bình là Nhật trao Trường Sa hay Hoàng Sa cho Trung Hoa Dân quốc, nhất là nếu từ “trao” không được giới hạn chặt chẽ và rõ ràng. Nếu có sự lẫn lộn, ngộ nhận hay mạo nhận thì nó sẽ giống như lẫn lộn, ngộ nhận hay mạo nhận việc lính Anh đến miền Nam sau Thế Chiến 2 là Nhật trao chủ quyền đối với miền Nam cho Anh.
Trên thực tế, hoàn toàn không có chứng cớ rằng Nhật đã trao chủ quyền đối với Hoàng Sa hay Trường Sa cho bất cứ chính phủ nào của Trung Quốc trước Hiệp Định San Francisco 1951. Thêm vào đó, có thể lý luận rằng vì Nhật chưa trao chủ quyền đối với Hoàng Sa hay Trường Sa cho nước khác trước Hiệp Định San Francisco 1951 cho nên Nhật mới có thể và mới phải bỏ mọi yêu sách, hay quyền, hay chủ quyền đối với hai quần đảo này trong hiệp định đó.
Vì Nhật đã từ bỏ mọi yêu sách, hay quyền, hay chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa trong Hiệp Định San Francisco. Cho nên sau hiệp định đó không còn bất cứ quyền gì để trao Hoàng Sa hay Trường Sa cho bất cứ nước nào khác. Có thể kết luận rằng không thể có chuyện Nhật trao chủ quyền đối với Hoàng Sa hay Trường Sa cho Trung Quốc (như Trung Quốc mạo nhận).
Cũng xin nói thêm rằng phía Trung Quốc cũng nói rằng Nhật trao Trường Sa lại cho Trung Quốc và hay dùng những thủ đoạn ngôn ngữ tương tự để ngấm ngầm gieo rắc những tư duy sai vào tâm lý người đọc.
Các đảo đá quá nhỏ (trừ Itu Aba) nên bỏ ngỏ.
Không chiếm cứ không có nghĩa là bỏ ngỏ. Việt Nam không chiếm cứ tất cả các đảo lân cận đảo Côn Đảo, không có nghĩa là Việt Nam bỏ ngỏ những đảo mình không chiếm cứ. Chỉ khi nào có nước khác tới chiếm đảo nào mà Pháp không phản đối thì mới có thể có lý do để nói là Pháp bỏ ngỏ.
Không những thế, từ bỏ ngỏ cho đến bỏ chủ quyền còn một quãng đường xa. Ví dụ GS Chemillier-Gendreau cho rằng để chứng minh bỏ ngỏ là từ bỏ chủ quyền, cần phải chứng minh là tồn tại ý định từ bỏ chủ quyền của mình[5].
Sau khi Pháp thua trận ở Điện Biên phủ, Việt Nam Cộng hòa được Pháp chính thức giao lại Hoàng Sa vào tháng 4 năm 1956. Còn Trường Sa cho đến nay Pháp vẫn chưa chính thức trao trả. Tuy nhiên Việt Nam Cộng Hòa coi mình có quyền tiếp nối chủ quyền của Pháp nên cùng thời gian trên gửi quân chiếm một số đảo ở Trường Sa. Các nước khác trong vùng ĐNA cũng tuyên bố chủ quyền và ra sức chiếm những nơi không người.
Năm 1933 Pháp sáp nhập Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa. Như vậy chủ quyền đối với Trường Sa mặc định đi kèm theo chủ quyền đối với tỉnh Bà Rịa. Điều không ai có thể tranh cãi là khi Pháp công nhận sự độc lập của Việt Nam thì chủ quyền đối với tỉnh Bà Rịa thuộc về Việt Nam. Câu hỏi chính đáng là trước khi Pháp công nhận sự độc lập của Việt Nam thì Pháp có tách Trường Sa ra khỏi Bà Rịa hay không? Hay khi Pháp công nhận sự độc lập của Việt Nam thì Pháp có bảo lưu chủ quyền của mình đối với Trường Sa hay không? Câu trả lời cho hai câu hỏi này là “Không” và “Không”. Như vậy không tồn tại gì để thay đổi việc chủ quyền đối với Trường Sa mặc định đi kèm theo chủ quyền đối với tỉnh Bà Rịa. Vì vậy chủ quyền đối với Trường Sa mặc định thuộc về Việt Nam, không cần Pháp phải nói cụ thể rằng họ trao Trường Sa cho Việt Nam.
Đó cũng là tập quán quốc tế trong giai đoạn giành độc lập của các nước thuộc địa. Trong giai đoạn cai trị một nước như thuộc địa, nước thực dân thường chiếm hữu thêm lãnh thổ và sáp nhập vào thuộc địa của mình. Khi nước thuộc địa trở thành độc lập thì vùng lãnh thổ mới này mặc định thuộc về nước đó. Nếu không có hành động để tách vùng lãnh thổ mới này ra khỏi nước đó thì vị trí mặc định là vị trí áp dụng.
Việc chiếm đóng lãnh thổ mà nước khác đã tuyên bố chủ quyền trước không bao giờ được Toà công nhận là có giá trị trong lập luận pháp lý về chủ quyền, cho nên những sự chiếm đóng như TS Vũ Quang Việt đề cập đến không làm cho khía cạnh pháp lý trở nên phức tạp thêm.
Trung Quốc là nước duy nhất dùng bạo lực để chiếm đảo của Việt Nam vào năm 1988.
Việc chiếm đóng lãnh thổ mà nước khác đã tuyên bố chủ quyền trước không bao giờ được Toà công nhận là có giá trị trong lập luận pháp lý về chủ quyền, cho nên sự chiếm đóng này không làm cho khía cánh pháp lý phức tạp thêm.
Liệu một đế quốc hùng mạnh như Pháp có sức đe dọa nhiều nước kém phát triển ở ĐNA đang bị cai trị mà chỉ một câu tuyên bố chủ quyền ở một vùng đất vô chủ là có thể làm chủ tất cả các hòn đảo ở Biển ĐNA, dù chính Pháp không đủ sức thực hiện quyền làm chủ chúng ở mọi nơi, và lại bị Nhật phản đối?
Pháp và Việt Nam không đòi hỏi làm chủ tất cả các đảo ở Biển Đông Nam Á.
Tuyên bố chủ quyền của Nhật làm cho Trường Sa nằm trong một trong 3 tình trạng:
1. Hoặc là thuộc về Pháp
2. Hoặc là thuộc về Nhật
3. Hoặc là tình trạng tranh chấp chủ quyền giữa Pháp và Nhật
Cả 3 tình trạng này đều không phải là res nullius (đất vô chủ), và không cho phép Trung Quốc hay Philippines hay Malaysia đòi chủ quyền một cách hợp pháp. Vì vậy, tuyên bố chủ quyền của Nhật không làm cho khía cạnh pháp lý của tranh chấp giữa Việt Nam, Trung Quốc, Philippines và Malaysia phức tạp thêm. Thêm vào đó, việc nhật từ bỏ yêu sách đối với Trường Sa trong Hiệp Định San Francisco 1951 đã loại khả năng 2 và khả năng 3 ra khỏi 3 khả năng trên.
Vấn đề “Pháp không đủ sức thực hiện quyền làm chủ chúng ở mọi nơi” không phải là vấn đề. Luật quốc tế không đòi hỏi đủ sức thực hiện quyền làm chủ ở mọi nơi. Vấn đề là Pháp có làm đủ trình tự pháp lý cho việc xác lập chủ quyền hợp pháp hay không? có làm nhiều hơn các nước khác hay không?
Trả lời câu hỏi thứ nhất, GS Chemillier-Grendreau cho là đủ.
Để trả lời câu hỏi thứ nhì, từ 1933 cho đến sau Thế Chiến 2, Pháp làm nhiều hơn Trung Quốc, Anh, Mỹ – các nước này không hề làm gì. Pháp đã làm nhiều hơn các nước này và phản đối tuyên bố và sự xâm chiếm của Nhật trong khi các nước này không phản đối.
Chỉ có Nhật là có thể tuyên bố và hành động để cạnh tranh chủ quyền với Pháp, nhưng Hiệp Định San Francisco đã loại Nhật ra khỏi vòng tranh chấp.
Lợi ích sẽ được định như thế nào trên một khu vực rộng lớn mà kết cấu hầu hết là đá? Ngay cả Itu Aba cũng chưa chắc đã đủ tư cách pháp lý để được coi là đảo. Và dù được coi là đảo, dựa vào các tiền lệ xử án của Tòa án Quốc tế đảo này cũng có thể sẽ không có hoặc bị hạn chế quyền có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Vậy thì dù có chủ quyền, lợi ích có thể có ở các đảo đá này cũng có thể rất nhỏ. Và trước hết, lợi ích này cũng không thể thực hiện được khi chưa có giải pháp.
Lợi ích từ biển thuộc đảo và chủ quyền đối với đảo là hai vấn đề khác nhau. Bất kể lợi ích từ biển thuộc đảo là lớn hay nhỏ, chúng ta cũng cần phải biết chủ quyền đối với đảo thuộc về ai. Bất kể hiện nay chúng ta có thể gặt hái lợi ích từ biển thuộc đảo, dù lớn hay nhỏ, hay không, chúng ta cũng cần phải biết chủ quyền đối với đảo thuộc về ai. Vì vậy, chúng ta không nên xem vấn đề lợi ích từ biển thuộc đảo là lớn hay nhỏ và vấn đề có thực hiện được lợi ích đó hay không như những yếu tố làm giảm giá trị của việc xác định chủ quyền đối với đảo.
d. Giải pháp cho chủ quyền đối với Trường Sa
Về chủ quyền đối với Trường Sa, TS Vũ Quang Việt đề nghị
Sẽ là một giải pháp công bằng và hợp lý cho tất cả các bên liên quan nếu bỏ sang một bên thế kỉ của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân ở ĐNA.
Trong luật quốc tế, khi phân xử tranh chấp lãnh thổ liên quan đến các nước đã từng là thuộc địa, Toà án Công lý Quốc tế công nhận những hành vi phù hợp với luật pháp vào thời điểm đó của các nhà nước thực dân. Đó cũng là tập quán quốc tế: biên giới của các nước trước đây là thuộc địa thường là biên giới do các hành vi của các nhà nước thực dân trong thời kỳ thuộc địa.
Đề nghị “bỏ sang một bên thế kỉ của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân ở ĐNA” đi ngược với luật quốc tế và tập quán quốc tế, đồng thời cũng bỏ qua mất giai đoạn lịch sử quan trọng. Trên nguyên tắc, khó có thể nói rằng đề nghị này sẽ dẫn đến một giải pháp công bằng. Trên thực tế, đề nghị đó không những đi ngược với luật quốc tế hay tập quán quốc tế mà còn bất lợi cho Việt Nam, vì nó sẽ phủ định một số lập luận phù hợp với luật quốc tế của Việt Nam. Các học giả Trung Quốc cũng cố tình phủ định các hành vi của Pháp ở Trường Sa với cớ là “chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân”, vì phủ định như thế rất có lợi cho lập luận của Trung Quốc.
Nói chung, lập luận của phía Trung Quốc rất mang tính mỵ dân, tuyên truyền cho giới bình dân bởi tính tính quyến rũ và huyền thoại, nhưng, theo hiểu biết hạn hẹp của chúng tôi, lập luận của Việt Nam đi sát với pháp lý quốc tế và có nhiều lợi thế hơn. Có học giả Trung Quốc, có lẽ do nhận thấy ưu thế của phía Việt Nam trong pháp lý quốc tế, phản biện rằng luật quốc tế về chủ quyền là luật của chủ nghĩa thực dân, không thể áp dụng cho khu vực.
Vì vậy, và vì tinh thần “Luật quốc tế là thước đo khách quan nhất, khoa học nhất, và tinh tế nhất cho sự công bằng trong giải quyết tranh chấp lãnh thổ”, chúng tôi cho rằng các nhà nghiên cứu Việt Nam nên đi sát với luật quốc tế, tìm cách tận dụng luật quốc tế, và đặc biệt không bỏ qua những ưu thế có từ luật quốc tế.
e. Lối thoát cho bước thứ 3 của giải pháp (của TS Vũ Quang Việt)
i. Bài của TS Vũ Quang Việt chưa chứng minh được rằng hai lựa chọn được đưa ra cho lối thoát là công bằng
Về bước thứ ba của giải pháp cho chủ quyền đối với Trường Sa, tác giả viết như sau:
Một lối thoát trong bước 3 để giải quyết vấn đề chủ quyền đối với các đảo nhỏ, đảo đá… ở biển ĐNA bao gồm 2 lựa chọn:
1. Tất cả các đảo nhỏ, đảo đá… ở biển ĐNA nên được xem là tài sản chung của tất cả các quốc gia có bờ biển giáp với biển ĐNA. Nguồn thu nhập ròng từ tài nguyên trong biển ĐNA nên được phân chia theo tỷ lệ tương ứng với quy mô của đường cơ sở thẳng ven biển của mỗi quốc gia.
2. Các nước có chủ quyền đối với những điểm mà họ đang chiếm giữ, nhưng chỉ có đảo đá và đảo nhỏ có vùng lãnh hải 12 hải lý.
Hai lựa chọn trên không công bằng. Nếu pháp lý quốc tế xác định Trường Sa không phải là của ai, hay nếu pháp lý quốc tế không có khả năng xác định Trường Sa là của ai, thì 2 lựa chọn đó sẽ được cho là công bằng. Nếu, theo pháp lý quốc tế, Trường Sa là của Việt Nam thì 2 lựa chọn đó sẽ không công bằng đối với Việt Nam.
Bài viết này chưa phân tích chặt chẽ và sát với pháp lý quốc tế những vấn đề mà tác giả cho là phức tạp liên quan đến chủ quyền đối với Trường Sa. Thậm chí, bài viết có vẻ có nhận định không chính xác và thiếu cơ sở về những vấn đề đó. Do đó, khó có thể cho rằng tác giả đã xác định, hay xác định một cách chính xác, vị trí của sự công bằng để làm đường cơ sở cho việc đánh giá 2 lựa chọn trên.
ii. Có những lựa chọn khác
Nếu vùng biển thuộc các đảo Trường Sa được xác định là không rộng lớn thì điều đó sẽ giảm nhiệt của tranh chấp rất nhiều. Nếu vùng biển thuộc các đảo Trường Sa là nhỏ thì quyền lợi chiến lược và kinh tế thuộc các đảo này cũng nhỏ đi. Quyền lợi chiến lược và kinh tế thuộc các đảo nhỏ đi thì Trung Quốc sẽ bớt hung hăng về khẳng định mạnh mẽ chủ quyền của các đảo này. Ít nhất, nếu các nước ĐNA trong tranh chấp, các nước có quyền lợi liên đới và các cường quốc hàng hải trong việc bảo vệ quyền lợi và an ninh toàn cầu đồng ý rằng các đảo Trường Sa chỉ có thể được ít biển thì điều đó cũng kìm hãm sự hung hăng của Trung Quốc.
Với những lý do đã trình bày ở trên, Việt Nam nên tập trung vào bước thứ nhất và bước thứ 2 thay vì lựa chọn một trong 2 lựa chọn trên (đều không nhất thiết là công bằng cho Việt Nam) cho bước thứ 3.
Nếu thực hiện được phần nào của bước thứ nhất và bước thứ 2, kìm hãm phần nào sự hung hăng của Trung Quốc, thì Việt Nam sẽ có thêm thời gian và cơ hội để tìm kiếm lựa chọn công bằng hơn (ngoài 2 lựa chọn mà tác giả đưa ra) cho bước thứ 3, ví dụ như lựa chọn thứ 3: Các nước trong tranh chấp yêu cầu Toà án Công lý Quốc tế phân xử vấn đề chủ quyền đối với đảo.
Khả năng là lựa chọn này sẽ công bằng hơn lựa chọn 1 và 2.
Theo thiển ý của chúng tôi, rủi ro chính trong một phiên toà về chủ quyền đối với đảo là từ công hàm của Phạm Văn Đồng chứ không phải từ những “vấn đề phức tạp” mà tác giả đưa ra. Trước khi nghiên cứu tới nơi tới chốn, hay kỹ lưỡng nhất có thể, về các rủi ro thì Việt Nam cũng chưa nên chọn lựa chọn 3.
Nếu Việt Nam đã nghiên cứu tới nơi tới chốn và đủ tự tin thì nên yêu cầu các nước chọn lựa chọn 3; nếu chưa nghiên cứu tới nơi tới chốn, hay không tự tin, hay có nước trong tranh chấp chưa chấp nhận để cho Toà phân xử thì Việt Nam nên chọn lựa chọn thứ 4: Tiếp tục tranh chấp chủ quyền đối với các đảo (nhưng không đòi nhiều biển cho mỗi đảo). Các nước có quyền lợi liên quan ký hiệp định ràng buộc không sử dụng hay đe doạ sử dụng vũ lực, không chiếm đóng thêm, không dùng những biện pháp cương hay nhu nhằm chiếm đoạt, v.v.
[2] International Court of Justice, Rules of Court (1978). http://www.icj-cij.org
SOURCE: TẠP CHÍ THỜI ĐẠI MỚI SỐ 20 – THÁNG 11/2010 - DƯƠNG DANH HUY & HOÀNG ANH TUẤN KIỆT
Trích dẫn từ: http://www.tapchithoidai.org
(MKLAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)
5. Tranh chấp quyền sở hữu nhà, thủ tục khởi kiện đòi nhà
Cho tiền mua nhà hay chỉ nhờ đứng tên?
Theo lời khai của ông M., chị Đ. vốn là bạn gái của ông. Biết ông có ý muốn được làm chủ một căn nhà tại Việt Nam, chị đồng ý giúp ông bằng cách đứng tên mua nhà giùm. Đầu năm 2007, ông đã thỏa thuận mua căn nhà trên với giá 200 ngàn USD. Sau đó, ông dẫn chị Đ. đến gặp vợ chồng chủ nhà, đồng thời ký hợp đồng với chủ nhà để chỉ định chị Đ. đứng tên giùm mình.
Ông M. cho rằng do không phải là chủ sở hữu nhà thực sự nên chị Đ. không có quyền để thừa kế nhà cho bé J. Ông yêu cầu tòa án hủy hợp đồng mua bán nhà do chị Đ. ký tên và buộc bé J. giao trả nhà cho ông. Sau đó, ông sẽ trả lại nhà cho người bán để nhận lại tiền. Ngoài việc khai nhận giống như ông M., vợ chồng người bán cũng đồng ý thực hiện các yêu cầu đã nêu của ông M.
Ngược lại, phía gia đình chị Đ. cho biết giữa ông M. và chị Đ. có mối quan hệ tình cảm rất mật thiết, thậm chí đã tính đến chuyện kết hôn. Vậy nên ông M. mới cho chị Đ. 200 ngàn USD để chị mua nhà. Chừng khi chị Đ. mắc bệnh, ông M. đã “hợp tác” với chủ cũ để chiếm nhà của chị Đ.
Luật sư tư vấn luật Đất đai qua điện thoại gọi số: 1900.6162
Di chúc vô hiệu
Xử sơ thẩm vụ án vào tháng 1-2009, TAND TP Vũng Tàu xác định chị Đ. chỉ đứng tên giùm. Theo cấp sơ thẩm, nếu chị Đ. tự đàm phán và bỏ tiền mua nhà thì không có chuyện ông M. và người bán cứ fax đi fax lại bản hợp đồng chuyển nhượng để chỉnh sửa nội dung. Nếu không nhằm đến mục đích nhờ chị Đ. thanh toán giúp tiền mua nhà thì không cớ gì ông M. lại chuyển vào tài khoản của chị Đ. 200 ngàn USD. Lại nữa, biên bản bàn giao nhà đất không có chữ ký của chị Đ., chứng tỏ chị Đ. không phải là người mua thực.
Thế là cấp sơ thẩm tuyên xử di chúc của chị Đ. vô hiệu. Bé J. phải trả lại toàn bộ nhà đất cho chủ cũ. Vợ chồng chủ cũ phải thanh toán cho ông M. 3,2 tỷ đồng (tương đương 200 ngàn USD vào thời điểm chuyển nhượng).
Cuối tháng 3-2009, khi xử phúc thẩm vụ án, TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cũng có cách giải quyết tương tự như tòa sơ thẩm.
Luật sư Trần Công Ly Tao (Đoàn luật sư TP.HCM):
Người giám hộ có nghĩa vụ bảo vệ trẻ
Trước khi mất, chị Đ. được xác nhận là chưa kết hôn. Thông tin về người cha trong giấy khai sinh của bé J. bỏ trống; bé J. cũng không có anh chị ruột. Căn cứ vào Điều 61 Bộ luật Dân sự, bà ngoại là người giám hộ đương nhiên của bé.
Theo luật định, người giám hộ của người chưa đủ 15 tuổi có nghĩa vụ quản lý tài sản của người được giám hộ, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ… Vì vậy, bà ngoại sẽ là người quản lý tài sản của bé J. và bảo vệ quyền lợi cho bé J. tại tòa án. Người giám hộ cũng có thể ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia phiên tòa nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ.
SOURCE: BÁO PHÁP LUẬT TPHCM - HOÀNG LAM
Trích dẫn từ: http://www.phapluattp.vn
(MKLAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)