Mục lục bài viết
- 1. Khái niệm biện pháp tự vệ thương mại
- 2. Sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về tự vệ thương mại với các tổ chức và doanh nghiệp
- 3. Yếu tố tài chính trong cấu thành năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
- 4. Cơ sở vật chất kỹ thuật với việc áp dụng biện pháp tự vệ thương mại trong nhập khẩu hàng hoá Việt Nam
- 5. Yếu tố về năng lực tài chính ở Việt Nam
- 6. Năng lực phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về tự vệ thương mại với các tổ chức và doanh nghiệp
Khách hàng: Kính thưa Luật sư, về sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về tự vệ thương mại với các tổ chức và doanh nghiệp, năng lực tài chính trong cấu thành năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế được áp dụng như thế nào? Cơ sở vật chất kỹ thuật, năng lực tài chính và năng lực phổi hợp giữa cơ quan quản lí nhà nước về tự vệ thương mại với các tổ chức và doanh nghiệp ở Việt Nam đối với việc áp dụng biện pháp tự vệ thương mại trong nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam được thể hiện như thế nào?
Cảm ơn!
Trả lời:
1. Khái niệm biện pháp tự vệ thương mại
Thuật ngữ “tự vệ” theo WTO được hiểu là hành động khẩn cấp của nước nhập khẩu trước việc gia tăng nhập khẩu của một loại hàng hoá cụ thể, khi mà sự gia tăng nhập khẩu này gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất hàng hóa đó trong nước.
Tuy nhiên, đây chỉ là quan niệm, cách hiểu cơ bản và vận dụng về biện pháp tự vệ, không phải là định nghĩa phản ánh đầy đủ bản chất của hành động tự vệ. Vì vậy, trong các tài liệu nghiên cứu về tự vệ của WTO có đưa ra thêm một số giải thích bổ sung.
Chẳng hạn như, trong tài liệu giải thích về Điều XIX Hiệp định GATT 1994, ở mục 797 khi nhắc đến phán quyết của Uỷ ban phúc thẩm trong vụ kiện Argentina - Footwear nêu rõ biện pháp tự vệ theo qui định tại Điều XIX có đặc trưng là tính khẩn cấp, được áp dụng chỉ duy nhất trong trường hợp mà do kết quả của việc thực hiện nghĩa vụ theo Hiệp định GATT 1994, một thành viên nhận thấy quốc gia mình rơi vào những hoàn cảnh mà “không lường trước được” hoặc “ngoài dự đoán” khi đặt ra/đàm phán và ký kết cam kết liên quan.
Yong Shik Lee, Safeguard Measures in world trade, The Legal Analysis, Third Edition (2014) (Các biện pháp tự vệ trong thương mại thế giới: Phân tích pháp lý. Tái bản lần 3 (2014)) xác định, thuật ngữ “biện pháp tự vệ” được sử dụng để đề cập đến hạn chế nhập khẩu, được áp dụng như là một biện pháp tạm thời khi có sự gia tăng nhập khẩu gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa của sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp. Theo Yong Shik Lee, tự vệ còn có thể hiểu rộng hơn, gồm những trường hợp các bên “dị ngược lại” với những cam kết của mình và hạn chế nhập khẩu, không tính đến việc có hay không hành vi thương mại không lành mạnh: Điều XIX, XII, XVIII Hiệp định GATT 1994, Hiệp định Tự vệ (Hiệp định SG), Hiệp định nông nghiệp (AOA), Điều XII Hiệp định GATS. Nghị định thư gia nhập WTO của Trung Quốc, cho phép tự vệ cụ thể và đặc biệt là đến các sản phẩm trong thời gian chuyển đổi, chỉ áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu từ nước này. Biện pháp tự vệ nói chung (Điều XIX của GATT) được áp dụng cho mọi loại hàng hoá, trong khi những biện pháp tự vệ khác chỉ áp dụng giới hạn cho một số hàng hoá (sản phẩm nông nghiệp, dệt may), hoặc có thể không hướng đến việc bảo vệ hay ngăn ngừa thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước (đối với trường hợp sử dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu để bảo vệ cán cân thanh toán).
Biện pháp tự vệ thường được áp dụng một cách khắt khe hơn và phức tạp hơn biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp, vì để áp dụng biện pháp này, cơ quan điều tra phải chứng minh được tình trạng thiệt hại nghiêm trọng mà ngành sản xuất hàng hoá tương tự hoặc hàng hoá cạnh tranh trực tiếp trong nước phải chịu do sự gia tăng (về quy mô, số lượng) của hàng hoá nhập khẩu. Biện pháp tự vệ là việc tạm thời hạn chế nhập khẩu đối với một hoặc một số loại hàng hoá khi việc nhập khẩu những hàng hoá đó tăng nhanh gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước.
2. Sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về tự vệ thương mại với các tổ chức và doanh nghiệp
Khi nói về cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan quản lý nhà nước là cơ quan nhà nước hoạt động có tính chuyên nghiệp, có chức năng điều hành xã hội trên cơ sở, các cơ quan này được thiết lập nhằm thực thi và kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước, đảm bảo anh ninh, trật tự xã hội.
Tuỳ thuộc vào vị trí của mình, từng cơ quan trong hệ thống cơ quan quản lí nhà nước được pháp luật giao những quyền hạn nhất định để thực hiện chức năng thay mặt nhà nước điều hành xã hội trên phạm vi lãnh thổ, ngành hoặc lĩnh vực theo thẩm quyền do luật định.
Về điều kiện tiên quyết yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ thương mại để thực hiện khởi xướng điều tra xuất phát từ phía doanh nghiệp, khi doanh nghiệp đã có bằng chứng chứng minh có hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh/nhập khẩu ồ ạt cũng như tác động của chúng tới thiệt hại của doanh nghiệp.
Trách nhiệm quản lý nhà nước về tự vệ thương mại với các tổ chức có liên quan được phân định rõ ràng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan quản lý nhà nước đối với hàng hoá nhập khẩu chuýên ngành.
Cơ chế trao đổi, cung cấp, công khai thông tin, đảm bảo chính xác, đầy đủ, kịp thời. Yêu cầu trao đổi, cung cấp thông tin phải căn cứ vào nhu cầu quản lý nhà nước phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan yêu cầu. Việc sử dụng thông tin doanh nghiệp phải tuân thủ theo quy định của pháp luật.
Phối hợp trong điều tra vụ việc tự vệ thương mại phải bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, kịp thời; không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung điều tra trong cùng thời gian thực hiện điều tra.
3. Yếu tố tài chính trong cấu thành năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
Trong các vụ việc điều tra áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại, cơ quan điều tra phải thực hiện rất nhiều hoạt động.
Tài chính là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện điều tra áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại. Đây là điều kiện quyết định khả năng thực thi công vụ tin liên quan đến tự vệ thương mại. Hiện nay, nguồn tài chính là một vấn đề khó khăn đối cơ quan quản lý nhà nước về tự vệ thương mại. Chính phủ các nước trên thế giới đều dành một nguồn kinh phí để đảm bảo thực thi nhiệm vụ này. Ngân sách cho điều tra áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại bao gồm các khoản:
- Tiếp cận các nguồn thông tin, tài liệu mang tính chất thương mại từ các tổ chức nghiên cửu, thống kê có ùy tín. Đây là nguồn tài liệu quan trọng, khách quan để đánh giâ các tiêu chí vĩ mô và vi mô.
- Trưng cầu giám định nhằm kiểm tra tính chính xác của thông tin, tài liệu, thực hiện thông qua các tổ chức giám định trong và ngoài nước. Các tổ chức tư nhân uy tín thực hiện các nhiệm vụ này và có thu phí.
- Điều tra tại chỗ, bao gồm điều tra tại nước ngoài. Các bảng câu hỏi điều tra mà cơ quan điều tra ban hành và xử lý các câu trả lời trong giai đoạn bắt đầu điều tra.
4. Cơ sở vật chất kỹ thuật với việc áp dụng biện pháp tự vệ thương mại trong nhập khẩu hàng hoá Việt Nam
Hiện nay, các điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật cho cơ quan chuyên trách, cơ quan quản lý nhà nước về phòng vệ thương mại còn khá khó khăn. Trang thiết bị cho hoạt động điều tra, áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại còn thiếu.
Đặc biệt hơn là cần trang bị hệ thống máy tính kết nối mạng, thư viện và cơ sở dữ liệu các vụ việc về tự vệ thương mại. Vì hiện nay, cơ sở dữ liệu của cơ quan quản lý nhà nước hiện còn rất hạn chế.
Trang web còn đơn giản, chưa tích hợp cơ sở dữ liệu hoặc thư viện điện tử. Chưa xây dựng được hệ thống cảnh báo sớm về các vụ việc liên quan đến tự vệ thương mại, trong đó có các chương trình theo dõi tiến độ các cuộc điều tra tự vệ thương mại để tránh thiếu sót, xử lý quá hạn vụ việc.
5. Yếu tố về năng lực tài chính ở Việt Nam
Để vận hành và duy trì hệ thống các hoạt động và giải pháp đối với tự vệ thương mại, cũng như hệ thống cảnh báo sớm, thú thập và cơ sở dữ liệu liên quan đến tự vệ thương mại đòi hỏi phải có kinh phí thường xuyên và đầy đủ.
Tuy nhiên, với trình độ phát triển và điều kiện của nước ta, tiết giảm các khâu thực sự không cần thiết sẽ giúp tăng tính khả thi trong xây dựng và vận hành hệ thống đã được phê duyệt, đặc biệt khi nguồn kinh phí được cấp từ ngân sách Nhà nước. Tính kinh tế của cơ cấu tổ chức quản lý thể hiện ở sự tinh gọn của bộ máy (theo nguyên tắc “vừa đủ”) và hiệu suất vận hành của nó (không chỉ phụ thuộc chất lượng cán bộ mà còn do sự hợp lý của cơ cấu tổ chức). Tính kinh tế cũng có nghĩa là tính hiệu quả của bộ máy thể hiện qua tương quan giữa chi phí với kết quả thu về.
Trong các vụ việc điều tra áp dụng biện pháp tự vệ thương mại, cơ quan điều tra và giải quyết không thu bất cứ loại phí, lệ phí nào của các bên liên quan, trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp trong nước. Theo cơ chế và quy định hiện hành, cơ quan điều tra (là cơ quan của nhà nước) không có nguồn tài chính nào khác ngoài nguồn được cấp từ ngân sách nhà nước.
Trong khi đó, một vụ việc về tự vệ thương mại được đánh giá là rất phức tạp, liên quan đến lợi ích của các doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp nhập khẩu. Các kết luận điều tra cần phải mất rất nhiều công sức, nhiều nội dung điều tra như:
- Tiếp cận các nguồn thông tin, tài liệu mang tính chất thương mại từ các tổ chức nghiên cứu, thống kê có uy tín. Đây là nguồn tài liệu quan trọng, khách quan để đánh giá các tiêu chí vĩ mô và vi mô;
- Trưng cầu giám định nhằm kiểm tra tính chính xác của thông tin, tài liệu, thực hiện thông qua các tổ chức giám định trong và ngoài nước. Nếu các tổ chức tư nhân uy tín thực hiện các nhiệm vụ này sẽ thu phí dịch vụ;
- Điều tra tại chỗ, bao gồm điều tra tại nước ngoài. Các bản câu hỏi điều tra mà cơ quan điều tra ban hành và xử lý các câu trả lời trong giai đoạn bắt đầu điều tra. Do đó, yêu cầu có đủ nguồn tài chính để thực hiện các nhiệm vụ này là một yếu tố rất quan trọng và bắt buộc phải được đảm bảo.
6. Năng lực phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về tự vệ thương mại với các tổ chức và doanh nghiệp
Thuật ngữ “tự vệ” theo WTO được hiểu là hành động khẩn cấp của nước nhập khẩu trước việc gia tăng nhập khẩu của một loại hàng hoá cụ thể, khi mà sự gia tăng nhập khẩu này gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất hàng hóa đó trong nước.
Mặc dù có nhiều khái niệm và cách hiểu khác nhau, nhưng để có thể hiểu và sử dụng khái niệm này trong thực tế, và phù hợp với quan niệm cũng như thực tiễn áp dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế, trong phạm vi của cuốn sách này, biện pháp tự vệ được sử dụng sẽ là: “Biện pháp tự vệ là một trong ba bộ phận cẩu thành của biện pháp phòng vệ thương mại. Biện pháp tự vệ là công cụ bảo vệ, hỗ trợ ngành sản xuất hàng hoả tương tự, hoặc cạnh tranh trực tiếp của nước nhập khẩu trong trường hợp khẩn cẩp nhằm hạn chế những thiệt hại nghiêm trọng do tình trạng gia tăng của hàng hoá nhập khẩu gây ra hoặc đe doạ gây ra”.
Sự phối hợp giữa Bộ Công Thương với Tổng cục Hải quan, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Y tế, Bộ Khoa học và Công nghệ... trong quá trình tiến hành điều tra, áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại chưa thật sự chặt chẽ, nhịp nhàng và đồng bộ.
Thông tin và trao đổi giữa các Bộ, ngành cũng như giữa các cơ quan quản lý nhà nước với doanh nghiệp về tự vệ thương mại còn chưa đầy đủ và thường xuyên. Chưa có cơ chế phối hợp liên ngành cụ thể giữa Bộ Công Thương với các Bộ quản lý chuyên ngành có liên quan như đối với vấn đề trách nhiệm của các cơ quan trong việc phối hợp làm việc, điều động, biệt phái cán bộ tham gia vào các vụ điều tra tự vệ thương mại...
Trân trọng!