Mục lục bài viết
- 1. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về tự vệ thương mại
- 2. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức của cơ quan thực thi các biện pháp tự vệ thương mại trong thương mại quốc tế
- 3. Nâng cao năng lực của đội ngũ điều tra viên trong điều tra, áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại
- 4. Năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
- 5. Biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
Khách hàng: Kính thưa Luật sư, về giải pháp quản lý nhà nước trong việc hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, hoàn thiện cơ cẩu tổ chức của cơ quan thực thi các biện pháp tự vệ và việc nâng cao năng lực của đội ngũ điều tra viên để nâng cao năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế của Việt Nam đến năm 2025 được thực hiện như thế nào?
Cảm ơn!
Trả lời:
1. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về tự vệ thương mại
Hiện nay Việt Nam đang trong tiến trình đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập với khu vực và thế giới. Nền kinh tế thị trường khi vận hành phải tuân thủ những quy luật và nguyên tắc riêng có của nó, trong đó có tự do hoá thương mại. Tự do hoá đối với các dòng hàng hoá nhập khẩu vào trong nước là một tất yếu của nền kinh tế có độ mở lớn.
Chính vì vậy, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về tự vệ thương mại nhằm bảo vệ sản xuất và thị trường trong nước, đồng thời khuyến khích cạnh tranh là hết sức quan trọng, góp phần tạo dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh, hiệu quả, duy trì sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Chính sách, pháp luật về tự vệ thương mại phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo tính minh bạch, có thể dự đoán được để cho phép các doanh nghiệp nắm rõ và quyết định tham gia các vụ kiện hay đưa ra quyết định yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ thương mại.
Hiện tại, các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực tự vệ thương mại được điều chỉnh bởi 2 văn bản quy phạm pháp luật chính là Pháp lệnh 42/2002/PL-ƯBTVQH10 ngày 25 tháng 5 năm 2002 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam và Luật Quản lý ngoại thương được Quốc hội thông qua ngày 2 tháng 6 năm 2017, có hiệu lực từ 01/01/2018. Tiếp đó là các Nghị định 150/2003/NĐ- CP ngày 08 tháng 12 năm 2003 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam, Nghị định số 10/2018/NĐ-CP về qui định chỉ tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương về các biện pháp phòng vệ thương mại. Bên cạnh đó, áp dụng biện pháp TVTM còn được thực hiện dựa trên các Điều ước quốc tế được ký kết hoặc gia nhập nhân danh Nhà nước hoặc nhân danh Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam. Dưới góc độ xây dựng hay hoàn thiện khung khổ pháp lý, bao gồm phạm vi và mức độ xử lý các vấn đề liên quan đến năng lực sản xuất trong nước, quan hệ ứng xử giữa các thành viên trên thị trường, mâu thuẫn lợi ích giữa nhà sản xuất và nhà nhập khẩu, chính sách, pháp luật về tự vệ thương mại cần được xây dựng, hoàn thiện trên cơ sở đồng bộ, thống nhất.
Quá trình hoàn thiện chính sách, pháp luật về tự vệ thương mại thông qua việc điều chỉnh, cập nhật, chi tiết hoá các qui định hiện tại trong các văn bản pháp luật liên quan phù hợp với thực tiễn là cần thiết, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động điều ưa, áp dụng biện pháp tự vệ thương mại, cũng như đảm bảo tính an toàn pháp lý của các hoạt động này (trước nguy cơ bị các nước thành viên WTO kiện do vi phạm cam kết WTO).
Quá trình hoàn thiện chính sách, pháp luật về tự vệ thương mại cần những nghiên cứu sâu, kỹ càng cả về lý thuyết cũng như thực tiễn của thế giới và Việt Nam. Tuy nhiên, rà soát về những vướng mắc thực tiễn điều tra, áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại ở Việt Nam liên quan đến các qui định về điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ thương mại, đặc biệt là trong các FTA mới đầy liên quan đến tự vệ song phương, vấn đề đền bù sau áp dụng biện pháp tự vệ thương mại... Có thể thấy, để nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ tự vệ thương mại ở Việt Nam cần những hành động thực chất cả về thực tiễn lẫn pháp luật của cả các doanh nghiệp, hiệp hội và các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
Để đạt hiệu quả tốt nhất, các giải pháp này cần được thực hiện đồng thời, với sự phối hợp chặt chẽ của các chủ thể liên quan. Quá trình sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về tự vệ thương mại của các cơ quan quản lý nhà nước cần sự tham gia tích cực của các hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp.
2. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức của cơ quan thực thi các biện pháp tự vệ thương mại trong thương mại quốc tế
Ở Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật đối với lĩnh vực chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ là Bộ Công Thương, trong đó Cục Phòng vệ thương mại là tổ chức trực thuộc, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương trong lĩnh vực này. Cục Phòng vệ thương mại mới được thành lập trên cơ sở tách từ Cục Quản lý cạnh tranh, nên về số lượng các cán bộ thực thi còn thiếu khá nhiều, khó đáp ứng được yêu cầu công việc liên quan đến các vụ việc ngày càng tăng, nhất là trong công tác điều tra, nên trước hết cần phải tăng cường về số lượng đội ngũ cán bộ này. Vì vậy, cơ quan quản lý nhà nước cần có kế hoạch nhân sự để chuẩn bị thực hiện những nhiệm vụ ngày càng khó khăn, phức tạp liên quan đến điều tra, áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại trong thời gian tới.
Tổ chức và thành lập cơ quan điều tra để áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại chuyên nghiệp, hoạt động hiệu quả thông qua việc nâng cao năng lực quản trị, điều hành tổ chức, đào tạo bồi dưỡng và phát triển đội ngũ điều tra viên, đầu tư trang bị cơ sở vật chất, quảng bá hoạt động của tổ chức.
Trên thực tế các vụ việc liên quan đến tự vệ thương mại trong nhập khẩu hàng hoá đã thực hiện trong thời gian qua trên thế giới, có rất nhiều vụ việc được phát hiện, thông báo và hướng dẫn doanh nghiệp yêu cầu áp dụng các pháp tự vệ thương mại là của chính cơ quan điều tra.
Điều này không khó lý giải khi mà về mặt bản chất, tự vệ thương mại là công cụ được thiết kế cho các doanh nghiệp trong nước nhằm đối phó với sự gia tăng đột biến, bất thường của hàng nhập khẩu và vì lợi ích của quốc gia, trong đó bên thụ hưởng là doanh nghiệp trong nước. Mặc dù việc có yêu cầu áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại hay không phụ thuộc hầu như toàn bộ vào các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, nhưng cơ quan điều tra cũng cần thiết lập một bộ phận theo dõi sự gia tăng đột biến, bất thường của hàng nhập khẩu để có cơ sở thông tin, dữ liệu tư vấn, hướng dẫn cho các doanh nghiệp thực hiện quyền và lợi ích của mình.
Ngoài ra, để tăng cường sự công khai, minh bạch trong vãn bản pháp quy và trong thực thi. Có thể nghiên cứu về cơ chế phối hợp, hợp, tác với tổ chức điều tra viên trong và ngoài nước tham gia các vụ việc điều tra một số vụ việc tự vệ thương mại trọng điểm, có yếu tố phức tạp, khả năng phải bồi thường lớn khi áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại chính thức.
3. Nâng cao năng lực của đội ngũ điều tra viên trong điều tra, áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại
Tổ chức tập huấn chuyên sâu về kỹ năng củạ điều tra viên, như kỹ năng nghiên cứu hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ thương mại, kỹ năng áp dụng pháp luật nước ngoài, rà soát điều khoản về tự vệ thương mại, áp dụng biện pháp tạm thời, biện pháp chính thức, kỹ năng thu thập chứng cứ, mời giám định viên; kỹ năng hoà giải trong tố tụng trọng tài, kỹ năng tổ chức các phiên họp, kỹ năng hỏi của điều tra viên, kỹ năng soạn thảo báo cáo đề xuất áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại, quy tắc đạo đức của điều tra viên... Đồng thời, tổ chức học tập kinh nghiệm trong giải quyết các tranh chấp thương mại cho đội ngũ điều tra viên cũng như thực thi công vụ liên quan đến tự vệ thương mại.
Nghiên cứu các chương trình hợp tác quốc tế để tổ chức cho điều tra viên học hỏi kinh nghiệm nước ngoài, đặc biệt là đi thực tập tại các cơ quan của WTO liên quan đến tự vệ thương mại quốc tế; nâng cao năng lực hội nhập quốc tế của điều tra viên; khuyến khích các điều tra viên Việt Nam tham gia các tổ chức xã hội nghề nghiệp của điều tra viên quốc tế, tham gia diễn đàn quốc tế về tự vệ thương mại (tập huấn, hội nghị, hội thảo quốc tế và khu vực...).
4. Năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
Thông thường, khái niệm năng lực theo nghĩa hẹp chỉ đề cập đến con người và những yếu tố liên quan đến con người cụ thể khi thực hiện các nhiệm vụ hay hành động có chủ đích nào đó.
Trong khuôn khổ chúng ta nghiên cứu về "Năng lực" này là sẽ nghiên cứu về năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế được xem xét trên phương diện là năng lực xây dựng các qui định pháp lý về tự vệ trong thương mại quốc tế và năng lực tổ chức, quản lý và thực hiện và áp dụng biện pháp tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá (năng lực tổ chức và cá nhân) của một quốc gia.
Trong thương mại quốc tế hàng hoá, dịch vụ được di chuyển qua biên giới các quốc gia. Vì vậy, hoạt động thương mại quốc tế phụ thuộc nhiều vào chính sách thương mại của các nước liên quan, đặc biệt là việc quản lí thương mại quốc tế thông qua các công cụ chính sách như thuế, hạn ngạch và các công cụ, biện pháp phi thuế quan khác của các nước. Chính phủ các nước có thể sử dụng các hàng rào (thuế quan và phi thuế quan) để ngăn ngừa hay điều tiết luồng hàng hoá nhập khẩu để bảo vệ sản xuất, thị trường và doanh nghiệp trong nước, hoặc cũng có thể sử dụng các công cụ khác nhau như các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp (trợ cấp không bị khiếu kiện, trợ cấp không bị cấm nhưng có thể bị khiếu kiện) và trong khuôn khổ của cuốn sách này sẽ tập trung đề cập đến biện pháp tự vệ trong nhập khẩu để giúp các doanh nghiệp trong nước tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, cũng như sản xuất trong nước chống đỡ với luồng hàng hoá nhập khẩu quá mức theo cam kết và qui định quốc tế.
Trong khung khổ WTO, mỗi nước nhập khẩu là thành viên WTO đều có quyền áp dụng biện pháp tự vệ, nhưng khi áp dụng phải bảo đảm tuân theo các qui định của WTO mà ở đây là Hiệp định về các biện pháp tự vệ. Đây là Hiệp định qui định khi nào và bằng cách nào các nước thành viên có thể vận dụng Điều XIX của GATT về qui định khả năng áp dụng hành động khẩn cấp để bảo vệ ngành sản xuất (công nghiệp, nông nghiệp) trong nước khỏi việc gia tăng khối lượng hàng hoá nhập khẩu không lường trước đang gây ra hoặc có thể gây ra thiệt hại nghiêm trọng tới ngành sản xuất của quốc gia.
Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết và là cơ sở để các cơ quan nhà nước/cơ quan của chính phủ thực hiện áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế là phải có yêu càu áp dụng biện pháp tự vệ thương mại của các doanh nghiệp hoặc đại diện pháp lý của họ. Như vậy, năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế còn phụ thuộc vào năng lực của doanh nghiệp trong việc xác định được thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước, làm cơ sở để đệ đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ thương mại lên các cơ quan chức năng giải quyết.
5. Biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
Thuật ngữ “tự vệ” theo WTO được hiểu là hành động khẩn cấp của nước nhập khẩu trước việc gia tăng nhập khẩu của một loại hàng hoá cụ thể, khi mà sự gia tăng nhập khẩu này gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất hàng hóa đó trong nước.
Tuy nhiên, đây chỉ là quan niệm, cách hiểu cơ bản và vận dụng về biện pháp tự vệ, không phải là định nghĩa phản ánh đầy đủ bản chất của hành động tự vệ. Vì vậy, trong các tài liệu nghiên cứu về tự vệ của WTO có đưa ra thêm một số giải thích bổ sung.
Chẳng hạn như, trong tài liệu giải thích về Điều XIX Hiệp định GATT 1994, ở mục 797 khi nhắc đến phán quyết của Uỷ ban phúc thẩm trong vụ kiện Argentina - Footwear nêu rõ biện pháp tự vệ theo qui định tại Điều XIX có đặc trưng là tính khẩn cấp, được áp dụng chỉ duy nhất trong trường hợp mà do kết quả của việc thực hiện nghĩa vụ theo Hiệp định GATT 1994, một thành viên nhận thấy quốc gia mình rơi vào những hoàn cảnh mà “không lường trước được” hoặc “ngoài dự đoán” khi đặt ra/đàm phán và ký kết cam kết liên quan.
=> Kết luận: Mặc dù có nhiều khái niệm và cách hiểu khác nhau, nhưng để có thể hiểu và sử dụng khái niệm này trong thực tế, và phù hợp với quan niệm cũng như thực tiễn áp dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế, trong phạm vi nghiên cứu, biện pháp tự vệ được sử dụng sẽ là: “Biện pháp tự vệ là một trong ba bộ phận cẩu thành của biện pháp phòng vệ thương mại. Biện pháp tự vệ là công cụ bảo vệ, hỗ trợ ngành sản xuất hàng hoả tương tự, hoặc cạnh tranh trực tiếp của nước nhập khẩu trong trường hợp khẩn cẩp nhằm hạn chế những thiệt hại nghiêm trọng do tình trạng gia tăng của hàng hoá nhập khẩu gây ra hoặc đe doạ gây ra”.
Trân trọng!