Mục lục bài viết
Nội dung được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Dân sự của Công ty luật Minh Khuê
>> Luật sư tư vấn pháp luật Dân sự, gọi: 1900 6162
1. Quyền con người là gì?
Quyền con người (Human rights, Droits de LHomme) là toàn bộ các quyền, tự do và đặc quyền được công nhận dành cho con người do tính chất nhân bản của nó, sinh ra từ bản chất con người chứ không phải được tạo ra bởi pháp luật hiện hành. Đây là những quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm do đấng tạo hóa ban cho con người như quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, những quyền tối thiểu của con người mà bất kì chính phủ nào cũng phải bảo vệ.
Quyền con người là vấn đề được nhiều quốc gia và Liên hợp quốc quan tâm đặc biệt. Từ khi thành lập (năm 1945) đến nay, Liên hợp quốc đã ban hành hàng trăm văn kiện pháp lý về quyền con người. Qua các văn kiện đó cho thấy quyền con người đã trở thành một hệ thống tiêu chuẩn pháp lý phổ biến mang tính toàn cầu, được nhiều quốc gia cam kết tôn trọng và thực hiện.
Quyền con người không những được nhìn nhận trên quan điểm các quyền tự nhiên (natural rights) mà nó còn được nhìn nhận trên quan điểm các quyền pháp lý (legal right). Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc cho rằng:“quyền con người được hiểu là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cả nhân và các nhóm chổng lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và sự tự do cơ bản của con người.
2. Hoạt động tư pháp là gì?
Trong lý luận và thực tiễn tổ chức hoạt động tư pháp của Việt Nam từ năm 1945 đến nay, tuy không có văn kiện chính thức nào giải thích rõ khái niệm hoạt động tư pháp nhưng đại đa số ý kiến cho rằng hoạt động tư pháp bao gồm hoạt động xét xử, điều tra, công tố (truy tố) và thi hành án. Tuy vậy, trong giới luật gia cũng còn ý kiến cho rằng hoạt động điều tra, công tố, thi hành án không phải là hoạt động tư pháp mà là hoạt động thuộc nhánh hành pháp. Song thực tế để thực hiện quyền tư pháp cần có những hoạt động xét xử, điều tra, công tố, thi hành án và các hoạt động bổ trợ tư pháp.
Khái niệm “hoạt động tư pháp” được gián tiếp định nghĩa trong một quy phạm pháp luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Bộ luật Hình sự năm 1985 quy định tại Điều 230: “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, của các tổ chức xã hội và của công dân”. Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định tại Điểu 292: “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”. Đến Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đầy gọi chung là Bộ luật Hình sự năm 2015) quy định tại Điều 367: “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm sự đúng đắn của hoạt động tố tụng và thi hành án”.
Từ những phân tích trên có thể hiểu hoạt động tư pháp bao gồm hoạt động tố tụng và thi hành án
3. Luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực tư pháp
c. Mác và Ph. Ãng-ghen khi đề cập đến chuyên chính vô sản cho rằng, kết quả của bạo lực cách mạng là một nhà nước tư sản sẽ phải được thay thế bằng một nhà nước vô sản. Chuyên chính vô sản là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa cộng sản. Trong thời kỳ quá độ đó, hoạt động của nhà nước vô sản không chỉ giới hạn ở các chức năng trấn áp sự phản kháng của giai cấp tư sản, mà cẩn khôi phục nền kinh tế bị phá hủy và xây dựng lại theo hướng phát triển xã hội chủ nghĩa. Học thuyết về chuyên chính vô sản của c. Mác và Ph. Ăng-ghen được V.I. Lê-nin phát triển trong quá trình chuẩn bị cho cách mạng vô sản và sau khi giai cấp vô sản nắm được chính quyền. Điều đó được thể hiện qua học thuyết pháp chế xã hội chủ nghĩa, quan điểm về Tòa án và Viện kiểm sát trong chế độ mới. Vê bảo đảm quyền chính đáng của con người bằng luật pháp, c. Mác từng nhấn mạnh: “Không một người nào, ngay cả nhà lập pháp ưu tú nhất, cũng không được đặt cá nhân mình cao hơn luật pháp do mình bảo vệ” (c. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002). Theo đó, tính tối thượng của pháp luật không chỉ đối với mọi người trong xã hội mà còn tối thượng ngay bản thân đối với nhà nước - với vai trò là người ban hành ra pháp luật. Mặt khác, “luật pháp là những tiêu chuẩn khẳng định rõ ràng, phổ biến... không phụ thuộc vào sự tùy tiện của cá nhân riêng lẻ. Bộ luật là kinh thánh của tự do, của nhân dân”, c. Mác cũng khẳng định rằng: “Đối với thẩm phán thì không có cấp trên nào ngoài luật pháp”.
3.1. Trước cách mạng tháng Mười (1917)
Trước Cách mạng tháng Mười (1917), V.I. Lênin đã chỉ rõ bản chất đàn áp, vi phạm nghiêm trọng quyền con người, quyền công dân của nền tư pháp tư sản. Người chỉ rõ: “Tòa án là của bọn quan lại với những đại biểu gật đầu của các đẳng cấp, cửa tòa đóng kín, các báo chí im hơi lặng tiếng, các nhân chứng giả, bọn chủ xưởng, bọn tuần cảnh ở xưởng, bọn cảnh sát đã đánh người, bọn lính đã bắn vào công nhân. Một tấn hài kịch nhơ nhuốc”.
Tù kinh nghiệm của Công xã Pa-ri khi các chiến sĩ cống xã chỉ nghĩ đơn thuần chiếm lấy chính quyền của giai cấp tư sản mà không tính đến việc đập tan bộ máy của chính quyền đó, V.I. Lênin đã rất kiên quyết trong việc xóa bỏ Tòa án bóc lột và thiết lập Tòa án kiểu mới, đối lập về bản chất so với Tòa án của nhà nước bóc lột, bảo vệ ở mức cao nhất quyền lợi của đại đa số nhân dân lao động. Đó là Tòa án do nhân dân lao động lập ra. V.I.
3.2. Sau cách mạng tháng Mười 1917
Lênin nhận xét rằng: “Quần chúng cách mạng đã đi vào con đường đúng đắn sau ngày 25 tháng Mười 1917 và đã chứng minh sức sống của cách mạng bằng cách bắt đầu tổ chức các Tòa án công nông riêng của họ”. Với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười, nhà nước và pháp luật của chế độ cũ bị xóa bỏ hoàn toàn. Nhà nước, pháp luật và một nền tư pháp kiểu mới được hình thành. V.I. Lênin chỉ rõ: “Nhiệm vụ tuyệt đối của cách mạng vô sản không phải là cải cách những cơ quan xét xử... mà phải đập tan hoàn toàn, quét sạch đến tận gốc tất cả Tòa án cũ và bộ máy của nó. Để thay thế Tòa án cũ, cuộc cách mạng đã thiết lập Tòa án mới, có tính chất nhân dần, nói đúng ra là Tòa án Xô-viết, xây dựng trên nguyên tắc là các giai cấp lao động, bị bóc lột, và chỉ có các giai cấp ấy thôi, tham gia quản lý nhà nước”. V.I. Lênin đã nêu rõ tính tất yếu, mục đích thực chất của chuyên chính vô sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa là trấn áp và cưỡng bức đối với bọn bóc lột, bọn phá rối trật tự, kỷ luật và thực hiện một nền dân chủ mới, phát động quần chúng lao động tham gia vào việc quản lý nhà nước và xây dựng cơ sở xã hội mới, đẩy mạnh sản xuất phát triển. Cần phải có một Tòa án mới, trước hết để chống lại bọn bóc lột, tước bỏ hết đặc quyền, đặc lợi của chúng. Trong những thời khắc nguy nan của chính quyền cách mạng non trẻ, vai trò của Tòa án với tính cách là công cụ của chuyên chính vô sản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để trấn áp kẻ thù giai cấp; đồng thời giữ kỷ cương, kỷ luật trong xã hội mới, bảo vệ quyển lợi chính đáng của đại đa số nhân dân lao động.
Việc thiết lập Tòa án kiểu mới của nhân dân lao động những ngày đầu của chính quyền Xô-viết là nhiệm vụ vô cùng khó khăn và phức tạp, diễn ra trong cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt, trong cuộc nội chiến và sự can thiệp của các nhà nước phương Tầy âm mưu lật đổ chế độ Xô-viết còn rất non trẻ. Với tư tưởng tiến bộ, vì nhân dân lao động, Nhà nước Xô-viết đã tuyên bố khẳng định các nguyên tắc cơ bản của nền tư pháp kiểu mới, đó là: tư pháp độc lập, chế độ Thẩm phán do nhân dân bầu; Hội thẩm nhân dân là những người đại diện cho nhân dần tham gia xét xử; xét xử công khai; bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Tòa án... Những nguyên tắc này đã trở thành những nguyên tắc nền tảng trong hệ thống tư pháp của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa sau này.
V.I. Lênin từng chỉ rõ: “Thực chất của chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực, cũng không phải chủ yếu là bạo lực”. Với sự ra đời của chính sách kinh tế mới, vai trò của Tòa án được thể hiện rõ hơn trong việc bảo đảm cho kinh tế phát triển lành mạnh, chống được tham nhũng, quan liêu, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành phần kinh tế, kể cả kinh tế tư bản tư nhân. Người nhấn mạnh rằng: “Các Tòa án nhân dân của nước cộng hòa phải giám sát nghiêm ngặt sự hoạt động của các nhà công thương nghiệp tư doanh, mà không làm trở ngại chút nào cho sự hoạt động của họ". Những luận điểm nói trên được hiện thực hóa bằng việc ngay sau 02 tuẩn thắng lợi của Cách mạng tháng Mười, Sắc lệnh số 01 về Tòa án đã được ban hành (công bố ngày 24-11-1917 trên báo Sự Thật), xóa bỏ hoàn toàn hệ thống Tòa án cũ của tư sản và địa chủ và thiết lập hệ thống Tòa án Xô-viết - một Tòa án kiểu mới với các nguyên tắc dân chủ khác hẳn các Tòa án của chế độ bóc lột.
Khi Liên bang Xô-viết được thành lập năm 1922, Hiến pháp Liên Xô năm 1924, 1936 và 1977 đã thiết lập một hệ thống tư pháp ổn định, phát triển và cống hiến trong suốt chặng đường lịch sử phát triển của Liên Xô cho đến khi Liên Xô đổ vỡ vào năm 1991.
Trên đây là chia sẻ của chúng tôi về nội dung "Luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp". Bạn đọc có vướng mắc về pháp lý cần được hỗ trợ vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900 6162 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Luật Minh Khuê (Sưu tầm & biên tập)