Khách hàng: Kính thưa Luật sư, Luật sư hãy giúp tôi phân tích về "Lý thuyết không thừa nhận quyền khởi kiện tranh chấp đầu tư quốc tế" có những nội dung gì?

Cảm ơn!

Trả lời:

 

Nói về tranh chấp đầu tư quốc tế, ta xét ở hai nghĩa:

- Nghĩa rộng, tranh chấp đầu tư quốc tế tương đối đa dạng, bao gồm những tranh chấp giữa các chủ thể liên quan (nhà nước, cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân) phát sinh trực tiếp từ việc thiết lập, thực hiện, quản lý đầu tư xuyên biên giới quốc gia;

- Nghĩa hẹp, tranh chấp đầu tư quốc tế được hiểu là tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà nước. Tuy nhiên, theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà nước vẫn được hiểu là tranh chấp liên quan hoạt động đầu tư giữa nhà nước nhận đầu tư với nhà đầu tư là cá nhân, pháp nhân đến từ quốc gia khác (nhà đầu tư nước ngoài) phát sinh trên cơ sở điều ước quốc tế, thỏa thuận/hợp đồng đầu tư quốc tế hoặc pháp luật của quốc gia nhận đầu tư. Trong cuốn sách này tranh chấp đầu tư quốc tế được giới hạn ở tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà nước và việc giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế là giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà nước (Investor - State Dispute Settlement - ISDS).

Vậy liên quan đến "Lý thuyết không thừa nhận quyền khởi kiện tranh chấp đầu tư quốc tế" có những nội dung gì? Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu ở những mục dưới đây:

 

1. Chủ quyền quốc gia

Trong quan hệ quốc tế, quốc gia là một chủ thể đặc biệt, có chủ quyền quốc gia. Điều này đã được thừa nhận trong pháp luật và tập quán quốc tế. Chủ quyền quốc gia bao gồm nhiều nội dung, trong đó có các quyền cơ bản là quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ, quyền tự quyết định những công việc nội bộ quốc gia, quyền độc lập trong quan hệ đối ngoại của quốc gia. Trong lịch sử, khái niệm chủ quyền quốc gia xuất hiện lần đầu tiên trong Hòa ước Westphalia năm 1648. Đây là Hòa ước bao gồm một loạt các hiệp ước hòa bình giữa quốc gia châu Âu ký từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1468.

Ở thời kỳ đầu khi xuất hiện khái niệm này, các học giả mà tiêu biểu là luật gia người Pháp Jean Bodin (1530-1596), và Hugo Grotius (1583-1645), luật gia, triết gia người Hà Lan đều cho rằng, chủ quyền quốc gia phải tuyệt đối. Theo đó, chủ quyền quốc gia là quyền được lãnh đạo và cưỡng chế mà không phải chịu sự lãnh đạo hay cưỡng chế từ bên ngoài. Tính tuyệt đối của chủ quyền quốc gia cũng được thể hiện ở việc quốc gia không bị xét xử hoặc thi hành biện pháp cưỡng chế từ bất cứ quốc gia, tổ chức nào. Theo quan niệm như vậy, cá nhân, tổ chức tư (bao gồm cả nhà đầu tư nước ngoài) không thể khởi kiện nhà nước ra trước bất cứ một cơ quan tài phán nào, dù là cơ quan tài phán của quốc gia hay cơ quan tài phán quốc tế. Trong thời kỳ hiện đại, tính tối cao của chủ quyền quốc gia cũng được thừa nhận tại các văn bản pháp lý quốc tế, thậm chí cả trong Hiến chương của Liên hợp quốc.

 

2. Quyền miễn trừ tư pháp dựa trên tính tuyệt đối của chủ quyền quốc gia

Quan niệm về tính tuyệt đối của chủ quyền quốc gia là nền tảng chủ yếu cho việc ra đời Học thuyết miễn trừ tư pháp tuyệt đối. Bên cạnh đó, nó cũng được hỗ trợ bởi: (i) Học thuyết về tính lịch thiệp trong quan hệ quốc tế với luận điểm cho rằng, quốc gia sẽ bị mất phẩm giá nếu bị xếp ngang hàng với cá nhân và thực tiễn xét xử các vụ việc liên quan đến nhà nước, tài sản nhà nước của tòa án.

Học thuyết miễn trừ tư pháp tuyệt đối có thời kỳ phát triển rực rỡ từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX. Theo đó, các quốc gia được miễn trừ hoàn toàn việc có thể bị xét xử tư pháp hoặc thi hành các biện pháp tài phán của các quốc gia khác. Trong giai đoạn này, do điểu kiện kinh tê - xã hội và hội nhập quốc tế của các quốc gia chưa phát triển nên hành động nhân danh chủ quyền và không mang tính chủ quyền của quốc gia chưa thực sự được phân định rõ rệt. Do đó, các quốc gia đồng nhất mọi hoạt động của mình là hành động mang tính chủ quyền quốc gia, theo tập quán quốc tế được miễn trừ tư pháp và như vậy cá nhân, tổ chức nước ngoài nói chung và nhà đầu tư nước ngoài nói riêng không được khởi kiện nhà nước sở tại tại bất kỳ thiết chế tài phán nào ở trong nước cũng như quốc tế.

 

3. Sự ảnh hưởng của Học thuyết Calvo

Tiêu biểu cho trường phái miễn trừ tư pháp tuyệt đối có Học thuyết Calvo. Theo Học thuyết này, người nước ngoài không được hưởng các quyền và đặc quyền khác với quyền mà quốc gia sở tại dành cho công dân của mình.

Do đó, người nước ngoài đang đầu tư, kinh doanh tại một quốc gia không thể có bất kỳ khiếu kiện nào đối với nhà nước sở tại. Học thuyết Calvo nhanh chóng được chấp nhận tại các quốc gia khu vực Mỹ Latinh cho đến tận giữa thế kỷ XX vì nó phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế - xã hội của các quốc gia khu vực Mỹ Latinh trong thời kỳ này, đó là các tư liệu sản xuất chủ yếu, nguồn tài nguyên thiên nhiên đang tập trung trong tay các nhà tư bản nước ngoài và các quốc gia khu vực Mỹ Latinh muốn dần kiểm soát, sở hữu lại chúng.

Do đó, Học thuyết Calvo là công cụ hữu hiệu để thực hiện việc này và hạn chế các quốc gia khấc sử dụng bảo hộ ngoại giao đối với tranh chấp đầu tư quốc tế giữa người nước ngoài với quốc gia sở tại. Thậm chí, tư tưởng của Học thuyết Calvo còn được chuyển hóa thành điểu khoản Calvo trong các văn bản pháp lý. Nhiều quốc gia khu vực Mỹ Latính cố gắng đàm phán để đưa điều khoản này vào hiệp định quốc tế mà họ là một bên tham gia. Một số quốc gia khu vực Mỹ Latinh còn ghi nhận Học thuyết Calvo trong hiến pháp, pháp luật của họ. Chính phủ và công ty nhà nước của các quốc gia khu vực Mỹ Latinh nhấn mạnh, đưa điều khoản Calvo vào trong các hợp đồng quốc tế mà họ tham gia. Theo đó, họ buộc bên nước ngoài phải đưa tranh chấp ra cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại và cấm người nước ngoài tìm kiếm sự bảo hộ ngoại giao với các tranh chấp này, trừ trường hợp có bằng chứng rõ ràng về việc quốc gia sở tại từ chối cho cá nhân, tổ chức nước ngoài đó tiếp cận công lý.

Hơn nữa, pháp luật của nước sở tại áp dụng đốì với công dân của họ sẽ áp dụng đối với tranh chấp có một bên là người nước ngoài và như vậy đương nhiên họ không có quyền khởi kiện nhà nước của quốc gia sở tại. Ngoài hiến pháp, pháp luật dân sự của nhiều quốc gia khu vực Mỹ Latinh có chứa điều khoản Calvo, ví dụ: Peru, Colombia, Chile, Êcuađo, Urugoay. Chính phủ của các quốc gia khu vực Mỹ Latinh đã viện dẫn điều khoản Calvo ỏ một sô' trọng tài quốc tế để bác bỏ thẩm quyền của Hội đồng trọng tài quốc tế.

Trước năm 1926, việc viện dẫn điều khoản Calvo để từ chối thẩm quyền của trọng tài quốc tế đã khá hiệu quả. Tuy nhiên, từ những thập niên cuối của thế kỷ XX đến nay, do nhu cầu tham gia sâu rộng vào các quan hệ thương mại, đầu tư quốc tế, các quốc gia khu vực Mỹ Latinh bắt đầu sửa pháp luật của mình để tạo thuận lợi cho việc sử dụng, tiếp cận trọng tài quốc tế trong giải quyết tranh chấp. Sự thay đổi thái độ đôì với trọng tài quốc tế của các quốc gia khu vực Mỹ Latinh được đánh dấu bằng việc khối Andean (gồm Peru, Colombia, Bolivia, Êcuađo) ban hành Quyết định số 220 vào năm 1987, theo đó, các quốc gia thành viên trên cơ sở pháp luật của mình có thể chọn cơ chế trọng tài cho các hợp đồng đầu tư nước ngoài và không ngăn cản việc chọn trọng tài nước ngoài cho ISDS. Từ thập niên 70 đến thập niên 80 của thế kỷ XX, pháp luật của các quốc gia thuộc khối Andean cũng bắt đầu có quy định về việc sử dụng trọng tài quốc tê trong giải quyết tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng vay vốn quốc tế (ví dụ: Pêru).

 

4. Sự áp dụng học thuyết trên thế giới

Theo trường phái áp dụng cứng rắn Học thuyết miễn trừ tư pháp tuyệt đối có Liên Xô và một số nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây. Các quốc gia xã hội chủ nghĩa cho rằng, nhà nước có quyền miễn trừ tuyệt đối. Tư tưởng này được đưa cả vào những hiệp định kinh tế mà các nước xã hội chủ nghĩa là một bên. Do việc nhất quán áp dụng Học thuyết miễn trừ tư pháp tuyệt đối nên pháp luật của Liên Xô và hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa trưóc đây không chấp nhận việc nhà nước của mình phải chịu sự xét xử của bất cứ cơ quan tài phán nào, nhất là các thiết chế tài phán nước ngoài hay trọng tài quốc tế.

Đốì với các quốc gia Tây Âu và Hoa Kỳ, trước thế kỷ XX cũng chủ yếu sử dụng Học thuyết miễn trừ tư pháp tuyệt đối trong hoạt động tư pháp. Điển hình cho việc áp dụng Học thuyết miễn trừ tư pháp tuyệt đối trong thực tiễn xét xử là phán quyết của Tòa án Hoa Kỳ đôì với vụ Schooner Exchange và M'Faddon. Trong vụ này, ngày 30/12/1810, một con tàu thuộc sở hữu của John M'Faddon và William Greetham (là công dân Hoa Kỳ) có tên “Schooner Exchange” bị bắt theo lệnh của Hoàng đế Pháp Napoleon Bonaparte trong khi đang hoạt động trong vùng lãnh hải của Pháp. Sau đó, tàu này được Pháp vũ trang và thực hiện nhiệm vụ như một tàu quân sự của Pháp mang tên Balaou. Năm 1812, trong một hải trình của mình, tàu Balaou đã gặp bão, bị hư hại và phải ghé vào Philadelphia, ở thời điểm này, M'Faddon và William Greetham đã khởi kiện tại một tòa án cấp quận của Hoa Kỳ (quận Pennsylvania) để bắt giữ và lấy lại tài sản cũ của mình là con tàu. về việc này, Tòa án quận Pennsylvania của Hoa Kỳ đã từ chối giải quyết đơn kiện của M'Faddon và William Greetham vì cho rằng, tòa án không có thẩm quyền xét xử đối vói tài sản của Chính phủ Pháp. Vụ việc đã được tiếp tục đưa lên Tòa án tối cao Hoa Kỳ. Chánh án Tòa án tôì cao Hoa Kỳ lúc bấy giờ là Marshall đã ra phán quyết là Tòa án Hoa Kỳ không có thẩm quyền bắt giữ con tàu Balaou và xét xử vụ này vì Balaou là tàu quân sự thuộc tài sản của Chính phủ Pháp nên được hưởng quyền miễn trừ tuyệt đối.

 

5. Kết thúc vấn đề

Mặc dù hiện nay, Học thuyết miễn trừ tư pháp tuyệt đối không còn phù hợp áp dụng trong quan hệ thương mại, đầu tư quốc tế nhưng vẫn được khá nhiều quốc gia ủng hộ, ví dụ: Braxin, Tuynidi, Vênêxuêla, Xlôvakia, Êcuađo, Hunggary, Rumani, Xuđăng, Xiri, Séc, Bồ Đào Nha, Thụy Điển... Các quốc gia này không chấp nhận việc nhà đầu tư nước ngoài khỏi kiện nhà nước.

Ngoài ra, cũng phải thấy một thực tế là, miễn trừ tư pháp tuyệt đối chưa bao giờ thực sự tuyệt đối trong suốt quá trình áp dụng học thuyết này. Trên thực tế, vì những lý do nhất định, ở một số trường hợp nhà nước tuyên bố từ bỏ quyền miễn trừ của mình để có thể xuất hiện với tư cách là bị đơn trước cơ quan tư pháp, xét xử trong các vụ việc về đầu tư, thương mại quốc tế. Càng về sau này, đặc biệt sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới bước vào hội nhập quốc tế sâu rộng, Học thuyết miễn trừ tư pháp tuyệt đốì tỏ ra yếu thế. Thay vào đó, Học thuyết miễn trừ tư pháp tương đối được sử dụng rộng rãi hơn.

 

Trên đây là nội dung Luật Minh Khuê sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.6162 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Luật Minh Khuê (Sưu tầm và Biên soạn).