Khách hàng: Kính thưa Luật sư Minh Khuê, Luật sư hãy giúp tôi phân tích rõ hơn về "Lý thuyết thừa nhận quyền khởi kiện tranh chấp đầu tư quốc tế" (Học thuyết miễn trừ tư pháp tương đối) có những nội dung gì?

Cảm ơn!

Trả lời:

 

1. Tình hình lịch sử

Từ đầu thế kỷ XX, nhà nước dần tham gia vào nhiều quan hệ tài sản với các cá nhân, tổ chức tư nhân nước ngoài, ở giai đoạn này, một số nhà chính trị và học giả luật học bắt đầu có những giải thích về chủ quyền quốc gia theo hướng nó không phải là tuyệt đối trong quan hệ liên quan đến tài sản của người nước ngoài có tại lãnh thổ của quốc gia đó.

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, do sự phát triển của khoa học - kỹ thuật và phân công lao động quốc tế, nhà nước có xu hướng tham gia nhiều hơn vào giao dịch thương mại, đầu tư quốc tế. Do đó, nguyên tắc miễn trừ tư pháp tuyệt đối dường như không còn phù hợp trong việc bảo đảm cho loại quan hệ này phát triển. Các tòa án của một số quốc gia Tây Âu bắt đầu áp dụng việc hạn chế quyền miễn trừ (bao gồm cả quyền không bị khởi kiện) đối với nhà nước nước ngoài trong giao dịch thương mại giữa tư nhân và nhà nước nước ngoài.

Đặc biệt, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, quá trình toàn cầu hóa bắt đầu diễn ra mạnh mẽ, kéo theo nhà nước càng tham gia nhiều hơn vào các quan hệ thương mại, đầu tư quốc tế với tư nhân. Việc này đòi hỏi phải có sự bình đẳng giữa nhà nước và tư nhân để bảo đảm quyền lợi chính đáng cho bên tư nhân, được cho là yếu thế hơn trong quan hệ thương mại, đầu tư quốc tế có nhà nước tham gia. Việc các quốc gia đặt mình ở vị trí cao hơn cả trong quan hệ này dường như không còn phù hợp. Do đó, các quốc gia phải từ bỏ một phần chủ quyền quốc gia (ví dụ: Các quyền miễn trừ xét xử và thi hành phán quyết của cơ quan tài phán) nhằm bảo đảm quốc gia có vị trí tương đối bình đẳng với các chủ thể tư khác cùng tham gia trong quan hệ thương mại, đầu tư.

 

2. Thừa nhận quyền khởi kiện đầu tư quốc tế ở châu Âu, quốc gia theo hệ thống dân luật

Ở châu Âu, Italia và Bỉ là hai quốc gia theo hệ thống dân luật không mặn mà với Học thuyết miễn trừ tư pháp tuyệt đối. Các tòa án ở Bỉ cũng đã áp dụng Học thuyết miễn trừ tư pháp tương đôi trong xét xử của mình.

Ví dụ, trong vụ Công ty đỉa ốc Corte Barchetto kiện Đại sứ quán Ma rốc tại Tòa án La Mã (Roma) năm 1977, Tòa án đã đưa ra nhận định: "Đại sứ quán Ma rốc, với việc thuê nhà như nêu trong yêu cầu bác thẩm quyền của tòa, đã tự đặt mình ngang hàng với chủ cho thuê, do đó, phải chịu sự tài phán của Tòa án Italia hoặc trong vụ Castanheira kiện Thương vụ Bồ Đào Nha (Castanheira V. Commercial Office of Portugal) năm 1980, Tòa án lao động Brúcxen cho rằng: Với việc ký và chấm dứt hợp đồng lao động, bị đơn đã thực hiện một hành vi quản lý mang tính tư và do đó, không thể viện dẫn quyền miễn trừ của mình.

Mục đích của việc hạn chế quyền miễn trừ này nhằm tạo điều kiện để bảo đảm “cân bằng” cho các giao dịch thương mại, đầu tư giữa tư nhân và nhà nước. Theo đó, cá nhân, tổ chức tư có thể kiện nhà nước mà mình không mang quốc tịch về hành vi quản lý (acta jure gestionis) và như vậy, hành vi của nhà nước trong hoạt động thương mại không được miễn trừ tư pháp. Tuy nhiên, trên thực tế khó có thể làm rạch ròi ranh giới giữa hành vi của nhà nước hoàn toàn mang tính chủ quyền quốc gia và hành vi thương mại do nhà nước tiến hành.

 

3. Thừa nhận quyền khởi kiện đầu tư quốc tế của hệ thống dân luật

Đối với các nước khác theo hệ thống dân luật, như Áo, Cộng hòa Liên bang Đức và Thụy Sĩ, Học thuyết miễn trừ tư pháp tương đối được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn xét xử bắt đầu từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

Ở các quốc gia theo hệ thống thông luật, sang thế kỷ XX, sự hình thành và phát triển của Học thuyết miễn trừ tư pháp tương đối trở nên mạnh mẽ, đặc biệt là đối với Hoa Kỳ.

Điển hình cho việc này là tuyên bố của Ngoại trưởng Hoa Kỳ Cordell Hull trong vụ Mêxicô trưng thu tài sản, trong đó có tài sản đầu tư của người nước ngoài. Theo Điều 27 Hiến pháp Mêxicô năm 1917 quy định những tài nguyên là đất, nước và khoáng sản do người dân Mêxicô toàn quyền sỏ hữu. Điều này dẫn đến việc Nhà nước Mêxicô có thể tước quyền sỗ hữu ruộng đất, dầu mỏ của người nước ngoài (trong đó có công dân Hoa Kỳ) tại Mêxicô. Tháng 3/1938, trước nguy cơ sụp đổ của ngành dầu mỏ Mêxicô, Tổng thống nước này đã tuyên bố quốc hữu hóa ngành dầu mỏ. Liên quan đến việc này, Nhà nước Mêxicô không từ chối bồi thường đối với việc tước quyền sỏ hữu nhưng việc bồi thường lại thực hiện không theo nguyên tắc kịp thời, nhanh chóng, đầy đủ, hiệu quả mà theo pháp luật trong nước, phụ thuộc vào khả năng bồi thường của Nhà nưóc. Cordell Hull là Bộ trưỏng Ngoại giao Hoa Kỳ lúc bấy giờ đã đưa ra quan điểm: Việc một chính phủ nước ngoài thông qua pháp luật của mình để lấy đi tài sản của công dân Hoa Kỳ là không phù hợp với pháp luật quốc tế. Đáp lại tuyên bô' của Cordell Hull, Mexico đã biện minh cho việc tưdc quyền sở hữu của Mexico đôì với trường hợp trên như là một biện pháp để đạt được công bằng xã hội trong nước. Mêxicô nhất quán quan điểm về chủ quyền quô'c gia là tuyệt đôì, theo đó quốc gia có toàn quyền xử lý các vấn để phát sinh, tồn tại trong nước, kể cả đối với người nước ngoài. Cũng theo cách hiểu này, trong trường hợp Mêxicô tịch thu, trưng thu đất đai, dầu mỏ, người nưốc ngoài không có quyền khởi kiện Nhà nưốc Mêxicô hoặc yêu cầu được bảo hộ ngoại giao. (Theo Catherine E. Jayne: The Diplomacy of Expropriation: American and British Reactions to Mexico’s Expropriation of Foreign Oil Profertirs, 1937-1943, 1997).

=> Như vậy, thời điểm này bắt đầu có sự đấu tranh mạnh mẽ giữa trường phái miễn trừ tư pháp tuyệt đốì và trường phái miễn trừ tư pháp tương đối của nhà nước.

 

4. Thừa nhận quyền khởi kiện đầu tư quốc tế ở Hoa Kỳ

Đối với Hoa Kỳ, Học thuyết miễn trừ tư pháp tương đối chỉ thực sự được tuyên bố rõ ràng trong Bức thư ngày 19/5/1952 của Jack B. Tate - Quyền Cố vấn pháp lý của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ gửi Philip. B Perlman - Quyền Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hoa Kỳ. Trong Bức thư này, trên cơ sở lập luận về thực tiễn thương mại, việc áp dụng Học thuyết miễn trừ tư pháp của các quốc gia và Hoa Kỳ, B. Tate đã tuyên bố, kể từ thời điểm này, chính sách của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ sẽ là theo đuổi Học thuyết miễn trừ tư pháp tương đối khi xem xét một yêu cầu của chính phủ nưốc ngoài về việc trao quy chế miễn trừ1.

Sau Bức thư nổi tiếng nêu trên, việc áp dụng Học thuyết miễn trừ tư pháp tương đối được hình thành trong chính sách của Hoa Kỳ, đặc biệt được thể hiện trong các án lệ.

Cũng trong năm 1976, Hoa Kỳ ban hành Luật miễn trừ dành cho quốc gia nước ngoài (The Foreign Sovereign Immunities Act - FSIA), trong đó quy định các trường hợp quốc gia không được hưởng quyền miễn trừ. Đôì với trường hợp quốc gia không được hưởng quyền miễn trừ, cá nhân, tổ chức tư có quyền khỏi kiện nhà nưốc tại các thiết chế giải quyết tranh chấp.

 

5. Thừa nhận quyền khởi kiện đầu tư quốc tế ở Áo, Pháp, Thụy Điển, Italia, Hy Lạp, Liên Xô (cũ)...

Quan điểm về miễn trừ tư pháp tương đối còn được ghi nhận trong thực tiễn xét xử ở tòa án của Áo, Pháp, Thụy Điển, Italia, Hy Lạp, Bỉ, Liên Xô (cũ) là một nước luôn chủ trương áp dụng cứng rắn Học thuyết miễn trừ tư pháp tuyệt đối, cũng đã bắt đầu có những thay đổi nhận thức đối với Học thuyết này từ thập niên 60 của thế kỷ XX khi tuyên bố sẵn sàng chấp nhận Học thuyết miễn trừ tư pháp tương đốì trên cơ sở “có đi, có lại”.

Trong Thỏa thuận thương mại giữa Hoa Kỳ và Liên Xô năm 1972, Liên Xô đã chấp nhận các đại diện thương mại tại nước ngoài của Liên Xô sẽ không được đòi hỏi hay hưởng miễn trừ xét xử, thi hành án hay trách nhiệm pháp lý đối với các giao dịch thương mại ở trên lãnh thổ Hoa Kỳ, cũng giống như cá nhân hay pháp nhân của Hoa Kỳ ở Liên Xô.

Cho đến nay, Học thuyết miễn trừ tư pháp tương đối đã và đang nhận được sự ủng hộ của nhiều quốc gia trên thế giới. Các quốc gia này thường chấp nhận quyền khởi kiện nhà nước của nhà đầu tư nước ngoài trong điều ước quốc tế về đầu tư mà họ là thành viên và thậm chí còn ghi nhận tại pháp luật trong nưốc về quyền đó.

Tuy vậy, cũng cần lưu ý rằng, trong hoạt động lập pháp quốc tế ở thế kỷ XX, các quốc gia cũng đã nỗ lực để cụ thể hóa Học thuyết miễn trừ tư pháp tương đối vào pháp luật quốc tế, ví dụ: Công ước Viên về quan hệ ngoại giao năm 1961, Công ước Viên về quan hệ lãnh sự năm 1963.... Đặc biệt, các nội dung này được quy định một cách cụ thể và tập trung tại Công ước của Liên hợp quốc về quyền miễn trừ tài phán và miễn trừ tài sản của quốc gia năm 2004.

Mặc dù như trên đã nêu, cho đến nay, việc áp dụng Học thuyết miễn trừ tư pháp tuyệt đối hay Học thuyết miễn trừ tư pháp tương đối vẫn chưa thống nhất đối với các quốc gia trên thế giới.

Do đó, việc triển khai tư tưởng của Học thuyết miễn trừ tư pháp tuyệt đối hay Học thuyết miễn trừ tư pháp tương đôi của cộng đồng quốc tế vào pháp luật quốc tế có vẻ như không thành công trên thực tiễn. Bằng chứng là Công ưốc về quyền miễn trừ tài phán và miễn trừ tài sản của quốc gia đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 02/12/2004 nhưng đến nay vẫn chưa có hiệu lực. Đối với các quốc gia châu Âu cũng cố gắng để có được một Công ước về miễn trừ quốc gia ký năm 1972 (có hiệu lực từ năm 1976). Mặc dù Công ước này đã cố gắng dung hòa giữa hai trường phái miễn trừ tư pháp tuyệt đốì và miễn trừ tư pháp tương đối, với việc quy định quốc gia có thể từ bỏ quyền miễn trừ tư pháp trong một số trường hợp, nhưng cho đến nay chỉ có 08 quốc gia gồm: Áo, Bỉ, Cộng hòa Síp, Cộng hòa Liên bang Đức, Đại công quốc Lúcxămbua, Hà Lan, Thụy Sĩ, Vương quốc Anh là thành viên Công ước.

 

6. Học thuyết quyền con người

Liên quan đến quyền được khởi kiện nhà nước nhận đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài còn được hỗ trợ bởi Học thuyết quyền con người, Học thuyết quyền tiếp cận công lý và Học thuyết hội nhập kinh tế. Các học thuyết này được coi là nguyên tắc “xương sông” trong việc bảo vệ quyền khởi kiện của nhà đầu tư nước ngoài đối với nhà nước nhận đầu tư.

Về quyền con người, trong đó có quyền tiếp cận công lý, Điều 10 của Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 nhấn mạnh: “Ai cũng có quyền, trên căn bản hoàn toàn bình đẳng, được một tòa án độc lập và vô tư xét xử một cách công khai và công bằng để phán xử về những quyền lợi và nghĩa vụ của mình hay về những tội trạng hình sự mà mình bị cáo buộc”.

Cụ thể hóa Tuyên bố này, Điều 14 Công ước Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 quy định: “Mọi người đều bình đẳng trước tòa án và cơ quan tài phán. Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sỗ pháp luật để quyết định về lòi buộc tội người đó trong các vụ án hình sự hoặc để xác định quyền và nghĩa vụ của người đó trong các vụ kiện dân sự”.

=> Như vậy, theo tinh thần của các điều ước quốc tế nêu trên, mỗi quốc gia có nghĩa vụ bảo đảm quyền tiếp cận công lý của con người ở phạm vi trong nước, quốc tế cho công dân của mình và công dân nước ngoài liên quan. Suy rộng ra, quyền con người bao gồm cả quyền được xét xử công bằng của nhà đầu tư nước ngoài khi tiến hành đầu tư tại một quốc gia. Trong quan hệ với nhà nước sở tại, quyền này được nhà nước sở tại bảo đảm bằng việc cam kết cho họ khởi kiện mình nếu có vi phạm nghĩa vụ bảo hộ đầu tư từ phía nhà nước sỏ tại xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài.

Trong mối quan hệ với quyền của nhà đầu tư nước ngoài được khởi kiện nhà nước nhận đầu tư, Học thuyết hội nhập kinh tế cũng có vai trò nhất định. Một trong những phương thức cơ bản của hội nhập kinh tế quốc tế là khuyến khích thương mại, đầu tư quốc tế phát triển. Để làm được điều đó, trong lĩnh vực đầu tư quốc tế, nhà đầu tư nước ngoài cần được bảo hộ khi đầu tư tại quốc gia mà mình không có quốc tịch. Một trong những biện pháp bảo hộ cơ bản, hữu hiệu là trao cho nhà đầu tư nước ngoài công cụ chông lại các hành vi vi phạm nghĩa vụ bảo hộ của nước sở tại. Việc này được các quốc gia nhận đầu tư thực hiện thông qua đưa ra cam kết tại điều ước quốc tế, hợp đồng đầu tư quốc tế và có thể cả pháp luật trong nước của mình về việc nhà đầu tư nưóc ngoài được khởi kiện nhà nước nhận đầu tư vụ việc tranh chấp đầu tư quốc tế, nhằm mở đường cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ở quốc gia mình.

 

Trên đây là nội dung Luật Minh Khuê sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.6162 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Luật Minh Khuê (Sưu tầm và Biên soạn).