Nội dung được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Dân sự của Công ty luật Minh Khuê

>> Luật sư tư vấn pháp luật Dân sự, gọi: 1900 6162

1. Quyền con người và phát triển con người có mối liên hệ như thế nào?

Khái niệm phát triển con người (human development), theo Chương trình phát triển liên hợp quốc (UNDP), là một tiến trình mở rộng các quyền lựa chọn cho mọi người, trao cho họ những cơ hội tốt hơn trong các vấn đê giáo dục, chăm sóc y tế, thu nhập, việc làm...

Cũng theo UNDP, phát triển con người và quyền con người có mối liên hệ chặt chẽ cả về động cơ và mục đích, có tác động bổ trợ lẫn nhau, tuy có những khác biệt nhất định về chiến lược hành động. Cụ thể, về những điểm tương đồng, phát triển con người và quyền con người đều nhằm thúc đẩy cuộc sống và hạnh phúc của con người trên cơ sở khuyến khích sự tôn trọng nhân phẩm vốn có của các cá nhân và sự bình đẳng giữa các dân tộc. Phát triển con người và quyền con người đều nhằm hiện thực hóa tự do vốn có của con người thông qua việc tăng cường các cơ hội và năng lực cho mọi người. Cả phát triển con người và quyền con người đều lấy con người làm trung tâm, đều nhằm tăng cường các tiêu chuẩn sống của con người không chỉ qua việc nâng cao thu nhập, mà còn qua việc cải thiện các thiết chế xã hội theo hướng dân chủ hóa và tôn trọng nhân quyền.

Điểm khác biệt cơ bản giữa phát triển con người và quyền con người là chiến lược hành động. Trong khi các hoạt động về phát triển con người, cụ thể như: Các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc được tổ chức thực hiện theo cách tiếp cận từ trên xuống dưới (top-down approach), do đó chủ yếu tác động đến kiến trúc thượng tầng của các nhà nước, còn các chương trình về quyền con người có cách tiếp cận cân bằng hơn, theo đó không chỉ các nhà nước mà cả các cộng đồng, các tô’ chức xã hội dân sự cũng đều được huy động tham gia một cách đồng thời.

Cho dù có những điểm khác biệt, song các chương trình và hoạt động về phát triển con người và quyền con người có mối liên hệ chặt chẽ, tác động hỗ trợ lẫn nhau. Đơn cử, các hoạt động bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người về kinh tế, xã hội, văn hóa bổ trợ và góp phần thúc đẩy việc triêh khai và đạt được tám mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (trong đó có sáu mục tiêu gắn liền với các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa). Ngược lại, những hoạt động nhằm thực hiện tám mục tiêu phát triển thiên kỷ cũng góp phần quan trọng vào việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Về vấn đề này, có một thuật ngữ được sử dụng phổ biến bởi các cơ quan Liên Hợp Quốc, đó là tiếp cận dựa trên quyền (right-based approach - RBA, hoặc human rights-based approach).

Các đặc trưng cốt lõi của RBA là:

+ Coi việc hỗ trợ thực hiện, thụ hưởng các quyền con người là mục tiêu chính trong các chính sách và chương trình phát triêh;

+ Lấy các nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người làm định hướng trong việc thiết lập và thực hiện các chương trình phát triển, và

+ Làm rõ những chủ thể của quyền, chủ thể có trách nhiệm và các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của họ, từ đó hỗ trợ họ tăng cường năng lực trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm.

2. Quyền con người và an ninh con người có mối liên hệ như thế nào?

An ninh con người (human security) là vấn đề mới được đề cập kể từ sau khi kết thúc Chiến tranh Lạnh và hiện đang được thảo luận sôi nổi trên thế giới. Báo cáo thường niên về phát triển con người của UNDP năm 1994 định nghĩa an ninh con người là sự cấu thành của hai điều kiện:

+ An toàn không bị đe dọa bởi đói nghèo, bệnh tật và sự áp bức, và

+ Được bảo vệ khi gặp những rủi ro bất thường trong cuộc sống, kể cả trong gia đình, trong công việc hay ngoài xã hội.

Báo cáo này cũng xác định bảy lĩnh vực chính của an ninh con người, bao gồm:

+ An ninh kinh tế (economic security) - hàm ý sự bảo đảm về việc làm và thu nhập cơ bản;

+ An ninh lương thực (food security) - thể hiện ở việc được bảo đảm nhu cầu tối thiểu về lương thực, thực phẩm;

+ An ninh sức khỏe (health security) - thể hiện ở việc được bảo đảm ở mức tối thiểu trong phòng chống dịch bệnh và chăm sóc y tế;

+ An ninh môi trường (environmental security) - thể hiện ở việc được bảo vệ trước thiên tai, tai họa do con người gây ra và sự ô nhiễm môi trường sống;

+ An ninh cá nhân (personal security) - thể hiện ở việc được bảo vệ trước những hành vi tội phạm, bạo lực hoặc lạm dụng thể chất do bất kê’ chủ thể nào gây ra;

+ An ninh cộng đông (community security) - thể hiện ở việc được duy trì các mối quan hệ và giá trị truyền thống của cộng đồng;

+ An ninh chính trị (political security) - thể hiện ở việc được tôn trọng các quyền con người cơ bản, đặc biệt là các quyền dân sự, chính trị.

Từ định nghĩa kể trên của UNDP, có thể thấy an ninh con người và quyền con người có mối quan hệ mật thiết, tác động và hỗ trợ lẫn nhau. Việc bảo đảm bảy dạng an ninh con người, về bản chất, cũng chính là bảo đảm các quyền con người tương ứng. Ngược lại, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người tương ứng cũng chính là nhằm thực hiện, bảo đảm bảy dạng an ninh con người. Thêm vào đó, cả an ninh con người và quyền con người đều hướng vào việc thúc đẩy các nguyên tắc dân chủ và sự phát triển về thể chế trong các xã hội như là những điều kiện để bảo đảm an ninh và các quyền của con người một cách bền vững.

Tương tự như với vấn đề phát triển con người, sự khác biệt giữa các chương trình, hoạt động về an ninh con người và về quyền con người chủ yếu thể hiện ở cách tiếp cận. Trong khi về cơ bản, các chương trình an ninh con người sử dụng cách tiếp cận giống như phát triển con người (tuy có đa dạng và mềm dẻo hơn) là tiếp cận theo chiều dọc, từ trên xuống, chủ yếu thông qua các nhà nước, thì quyền con người tiếp cận theo chiều ngang, thông qua cả nhà nước và xã hội dân sự. Thêm vào đó, nếu như các hoạt động an ninh con người hướng vào việc giúp con người đạt được sự tự do về nhiều mặt (tự do thoát khỏi đói nghèo - freedom from want; tự do không bị áp bức - freedom from fear, và tự do quyết định các hành động của bản thân mình -freedom to take action on one's own behalf) thì hoạt động về quyền con người chủ yếu hướng vào việc giúp con người đạt được tự do không bị áp bức. Chính vì vậy, trong khi các hoạt động an ninh con người chú trọng cả hai biện pháp bảo vệ và trao quyền (hay nâng cao năng lực - empowerment) thì các hoạt động về quyền con người thường lấy việc bảo vệ làm trọng tâm.

3. Quyền con người và tự do có mối liên hệ như thế nào?

Có nhiều định nghĩa về tự do (freedom), tuy nhiên, ở góc độ chung nhất, có thể hiểu tự do là tình trạng một cá nhân có thể và có khả năng hành động theo ý chí, nguyện vọng của mình phù hợp với các quy phạm pháp lý và đạo đức trong một xã hội dân chủ mà không bị cản trở bởi bất cứ chủ thể hay yêu tố nào. Tự do thường được phân thành tự do chủ động (positive freedom) và tự do thụ động (negative freedom). Tự do chủ động là tự do của cá nhân nhằm đạt được mục tiêu cụ thể nào đó (ví dụ như tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp...). Tự do thụ động là tự do của cá nhân khỏi bị các chủ thể khác xâm phạm đến (như tự do thân thể...).

Tự do là một yếu tố nền tảng của nhân phẩm. Việc tước đoạt tự do trong nhiều trường hợp làm tổn hại nghiêm trọng đến nhân phẩm. Chính bởi vậy J. J. Rousseau đã chỉ trích những người không dám đứng lên bảo vệ tự do: "Từ bỏ tự do của mình là từ bỏ phẩm chất con người, từ bỏ quyền làm người và cả nghĩa vụ làm người" (Bàn về Khế ước Xã hội -1762).

Tự do mang tính chất của một sự lựa chọn hay một quyền cá nhân, về khía cạnh này, J.S.MU1 cho rằng cần bảo vệ tự do của các cá nhân để họ được "sống hạnh phúc theo ý của họ, hơn là bắt họ sống hạnh phúc theo ý những người xung quanh" (Bàn về tự do - 1859). Cũng về khía cạnh này, K.Marx và F.Engels khẳng định cần hướng đến một xã hội lý tưởng trong tương lai mà "sự phát triển tự do- của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người." (Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, 1848).

Luật nhân quyền quốc tế đề cập đến cả hai khái niệm: các quyền (rights) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người. Tuy nhiên, trong thực tế hầu như không có sự phân biệt và khác biệt trong việc vận dụng các tiêu chuẩn quốc tế về quyền và tự do cơ bản của con người, bởi lẽ các tự do cơ bản thường được diễn đạt như là các quyền (ví dụ, tự do ngôn luận cũng thường được gọi là quyền tự do ngôn luận...

4. Quyền con người và dân chủ có mối liên hệ như thế nào?

Có nhiều định nghĩa khác nhau về dân chủ (democracy), song từ góc độ thể chế, có thể hiểu dân chủ là một phương thức cầm quyền mà cho phép các cá nhân, các nhóm và tất cả các chủ thể khác nhau trong xã hội có những cơ hội bình đẳng, đầy đủ và thực sự để tham gia các tiến trình và hoạt động chính trị.

Dân chủ và nhân quyền có mối quan hệ mật thiết, tuy không phải là hai phạm trù đồng nhất. Một trong những tiêu chí đầu tiên và cơ bản của một xã hội dân chủ là mọi cá nhân, nhóm và chủ thể khác nhau đều có các quyền và cơ hội bình đẳng để nêu lên ý kiến, quan điểm của mình và tham gia vào mọi tiến trình chính trị. Sự tôn trọng các quyền và tự do cá nhân, đặc biệt là các quyền dân sự, chính trị, cùng với các nguyên tắc pháp quyền, bình đẳng, không phân biệt đối xử, cùng tồn tại trong đa dạng, là những yêu cầu không thể thiếu và được tuân thủ nghiêm ngặt trong một nhà nước dân chủ.

Tất cả những đặc trưng và yêu cầu kể trên của một xã hội dân chủ chính là những đầu mối kết nối dân chủ và nhân quyền. Không thể xây dựng được một xã hội dân chủ nếu không tôn trọng và bảo vệ các quyền con người. Ngược lại, các quyền con người cũng không thể được bảo đảm một cách đầy đủ và thực sự nếu xã hội không có dân chủ.

Trong thực tế, một trong hai điều ước quốc tế cơ bản nhất về quyền con người (ICCPR) chính là những chuẩn mực cho các quốc gia khi phấn đấu xây dựng một xã hội dân chủ. Trong khi đó, các quyền được ghi nhận trong điều ước cơ bản thứ hai (ICESCR) chỉ có thể được thực hiện một cách hiệu quả trong bối cảnh một nhà nước dân chủ và pháp quyền.

5. Quyền con người và quản trị tốt có mối liên hệ như thế nào?

Theo một nghĩa khái quát, khái niệm quản trị tốt (good governance) đề cập đến những cơ chế, thể chế và tiến trình mà thông qua đó các nhà chức trách có thể giải quyết hài hòa và thỏa đáng các vấn đề công cộng.

Bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền và thực hiện quản trị tốt có tác động hỗ trợ lẫn nhau, bởi cả hai đều dựa trên và thúc đẩy những nguyên tắc cốt lõi trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội, như sự tham gia (participation), trách nhiệm giải trình (accountability), sự minh bạch (transparency), và trách nhiệm của nhà nước (state responsibility).

Quản trị tốt tăng cường tính hiệu quả, trách nhiệm giải trình, sự minh bạch và trách nhiệm của hệ thống cơ quan nhà nước, từ đó tạo ra môi trường thuận lợi cho việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người. Thực tế cho thấy, mặc dù những nỗ lực về quyền con người có thể giúp trao quyền và thúc đẩy sự tham gia của người dân vào các tiến trình chính trị ở các quốc gia, tuy nhiên, thành tựu đó không thể giữ được ổn định nếu thiếu những kết quả từ các chương trình quản trị tốt.

Đổi lại, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người giúp tăng cường và duy trì ổn định những thành tựu thu được từ những chương trình quản trị tốt thông qua việc thúc đẩy quá trình dân chủ hóa và cải tổ các nhà nước theo hướng nhà nước pháp quyền, cũng như trong việc củng cố những cơ chế kiểm tra, giám sát, sự tham gia của công chúng, đấu tranh chống tham nhũng và giải quyết những xung đột trong các xã hội.

6. Quyền con người và tăng trưởng kinh tế có mối liên hệ như thế nào?

Tương tự như với quản trị tốt, quyền con người và sự tăng trưởng kinh tế (economic growth) có mối quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ lẫn nhau.

Trước hết, để hiện thực hóa các quyền con người, đặc biệt là các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, các nhà nước và cộng đồng quốc tế cần có những nguồn lực vật chất mà chỉ có thể có được nhờ sự tăng trưởng kinh tế. Theo nghĩa này, tăng trưởng kinh tế có thể coi là một phưong tiện quan trọng để hiện thực hóa các quyền con người.

Đổi lại, quyền con người cũng góp phần thúc đẩy và duy trì sự tăng trưởng kinh tế bền vững, bởi lẽ quyền con người giúp kiến tạo và duy trì sự quản lý tốt - yếu tố nền tảng cho sự phát triển kinh tế. Quan trọng hơn, chỉ khi các quyền con người được bảo đảm mới giải phóng năng lực của mọi cá nhân con người, tạo ra sức sống, sự năng động của các xã hội trên mọi lĩnh vực trong đó có lĩnh vực kinh tế.

Tuy nhiên, trong khi xét ở bình diện chung, mối quan hệ tương tác giữa bảo vệ và thúc đẩy quyền con người và sự tăng trưởng kinh tế là không thể phủ nhận, cũng cần chú ý là ở những xã hội nhất định, trong những giai đoạn nhất định, sự tăng trưởng kinh tế không hoàn toàn đồng hành với việc thúc đẩy các quyền con người. Ví dụ, trong suốt những thập kỷ "cất cánh" của nền kinh tế (từ năm 1970 đến 1990), Hàn Quốc là một chế độ độc tài quân sự mà ở đó nhiều quyền dân sự, chính trị bị hạn chế một cách nghiêm ngặt. Hoặc Singapore, dù đã đạt được những kỳ tích về tăng trưởng kinh tế trong nửa thế kỷ vừa qua, nhưng chưa bao giờ được coi có thành tựu cao về thúc đẩy, bảo vệ các quyền chính trị và dân sự.

Trong khi nghịch lý kể trên hiện vẫn đang là đề tài được các nhà nghiên cứu "mổ xẻ", cộng đồng quốc tế đã đạt được sự thống nhất về nhận thức về những khía cạnh đó là: Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế phải phục vụ cho việc thúc đẩy quyền con người của tất cả mọi người (chứ không chỉ nhằm mang lại lợi ích cho một nhóm người). Thứ hai, không được thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá, mà phải trên cơ sở phù hợp và không được làm tổn hại đến các quyền con người (ví dụ, không được dẫn tới thảm họa về môi trường hay đẩy những nhóm người yếu thế ra ngoài lề sự phát triển của xã hội...)

7. Quyền con người có mối liên hệ như thê nào vói việc xóa bỏ đói nghèo?

Đối với đại đa số người đang phải sống trong tình trạng đói nghèo, tình trạng khốn khổ của họ là kết quả của nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó có việc họ bị loại trừ (exclusion) khỏi tiến trình phát triển của xã hội, bị tước bỏ, hay hạn chế những quyền và cơ hội để duy trì và cải thiện điều kiện sống. Ngược lại, đói nghèo ngăn cản khả năng nhận biết và hưởng thụ các quyền con người. Đơn cử, những con người mù chữ, phải vật lộn hàng ngày với miếng cơm manh áo thì không thể có điều kiện để thực hiện một cách đầy đủ và hiệu quả quyền được tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội...

Từ sự phân tích kể trên, có thể khẳng định rằng, tình trạng đói nghèo có liên quan một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đến những vấn đề về quyền con người, và những thành tựu về quyền con người đều trực tiếp hay gián tiếp góp phần vào xóa bỏ tình trạng đói nghèo. Hiểu rõ về mối quan hệ giữa bảo vệ và thúc đẩy quyền con người với việc xóa bỏ đói nghèo sẽ giúp củng cố và đẩy mạnh những nỗ lực kết hợp lồng ghép quyền con người vào chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của các quốc gia.

8. Quyền con người có mối liên hệ như thế nào với an ninh quốc gia?

Quan điểm chung cho rằng quyền con người và an ninh quốc gia (national security) hoàn toàn không phải là hai phạm trù đối lập mà ngược lại, chúng bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Việc bảo đảm tốt các quyền con người sẽ giúp giảm thiểu, ngăn ngừa những mâu thuẫn xã hội, củng cố sự đoàn kết nhất trí, thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt của một đất nước, qua đó góp phần bảo đảm an ninh quốc gia. Trong khi đó, bảo đảm an ninh quốc gia về bản chất chính là bảo đảm quyền độc lập và tự quyết dân tộc – yếu tố nền tảng để hiện thực hóa các quyền và tự do của mọi cá nhân trong một quốc gia.

Luật nhân quyền quốc tế thừa nhận nhu cầu chính đáng và tính chất hợp pháp của việc xác định giới hạn và tạm đình chỉ thực hiện một số quyền con người trong hoàn cảnh khẩn cấp vì mục đích bảo vệ an ninh quốc gia (xem Điều 29 UDHR và Điều 4 ICCPR), nhưng đồng thời đưa ra những điều kiện chặt chẽ cho việc tạm đình chỉ và giới hạn như vậy để bảo đảm sự hài hòa giữa việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người với nhu cầu bảo đảm an ninh quốc gia.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900 6162 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật Dân sự - Công ty luật Minh Khuê