1. Bản chất của phí thi hành án dân sự

Bản chất của phí là khoản tiền để bù đắp một phần chi phí đầu tư, quản lý của tổ chức, cá nhân đã cung cấp dịch vụ cho người thụ hưởng. Nó khác với thuế, cơ sở để thu phí là việc chủ thể được nhận phí đã cung cấp cho chủ thể nộp phí một lợi ích nhất định thông qua dịch vụ của mình. Trong khi đó thuế được hiểu là khoản trích nộp bằng tiền mà các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước, nhằm mục đích tạo nguồn thu ngân sách, thiết lập công bằng xã hội và định hướng tiêu dùng.

Việc thu phí mang tính hoàn trả trực tiếp, ngang giá (Mức phí cũng như lệ phí có thể được coi là một loại giá cả đặc biệt do Nhà nước quy định nhưng không có sự mặc cả như hàng hóa trên thị trường) và thường gắn với mục tiêu chi cụ thể cho một hoạt động phục vụ cụ thể của nhà nước. Thu phí có đối khoản rõ ràng và thường thể hiện ngay ở tên gọi của một loại phí cụ thể. 

Từ những đặc điểm chung của phí như trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy bản chất của khoản phí thi hành án dân sự là một khoản tiền mà người được thi hành án phải nộp khi được nhận các lợi ích vật chất từ hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự. Ở đây cần lưu ý là chỉ khi nào người được thi hành án nhận được các lợi ích vật chất, lợi ích này phải định lượng được bằng tiền thì mới phải nộp phí, chứ không phải là những lợi ích chung chung không có khả năng định lượng.

Nhìn từ góc độ thu phí, thì cơ quan thi hành án dân sự là chủ thể cung cấp dịch vụ, còn đương sự là người thụ hưởng dịch vụ đó. Đây cũng chính là một trong những cơ sở quan trọng để tiến hành xã hội hóa công tác thi hành án dân sự theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW đã khẳng định:

- Từng bước thực hiện việc xã hội hoá và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án.

 

2. Mức phí thi hành án dân sự mới nhất?

Mức thu phí thi hành án dân sự được quy định tại khoản 1 Điều 4 Thông tư 216/2016/TT-BTC quy định về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự như sau:

STT

Số tiền, giá trị tài sản thực nhận

Mức phí thi hành án dân sự

1

Số tiền, giá trị tài sản thực nhận từ trên hai lần mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang do Nhà nước quy định đến 5.000.000.000 đồng.

3% số tiền, giá trị tài sản thực nhận.

2

Số tiền, giá trị tài sản thực nhận từ trên 5.000.000.000 đồng đến 7.000.000.000 đồng.

150.000.000 đồng cộng với 2% của số tiền, giá trị tài sản thực nhận vượt quá 5.000.000.000 đồng

3

Số tiền, giá trị tài sản thực nhận từ trên 7.000.000.000 đồng đến 10.000.000.000 đồng.

190.000.000 đồng cộng với 1% số tiền, giá trị tài sản thực nhận vượt quá 7.000.000.000 đồng.

4

Số tiền, giá trị tài sản thực nhận từ trên 10.000.000.000 đồng đến 15.000.000.000 đồng.

220.000.000 đồng cộng 0,5% số tiền, giá trị tài sản thực nhận vượt quá 10.000.000.000 đồng.

5

Số tiền, giá trị tài sản thực nhận trên 15.000.000.000 đồng.

245.000.000 đồng cộng với 0,01% của số tiền, giá trị tài sản thực nhận vượt quá 15.000.000.000 đồng.

 

 Lưu ý về mức phí thi hành án dân sự trong một số trường hợp đặc biệt:

- Đối với vụ việc chia tải sản chung, chia thừa kế; chia tài sản trong ly hôn; vụ việc mà các bên vừa có quyền, vừa có nghĩa vụ đối với tài sản thi hành án (chỉ cần một trong các bên có yêu cầu thi hành án), thì người được cơ quan thi hành án dân sự giao tiền, tài sản thi hành án phải nộp phí thi hành án tương ứng với giá trị tiền, tài sản thực nhận.

Ví dụ: Tòa án xử ly hôn giữa ông A và bà B, trong phần chia tài sản ly hôn, bà B được nhận nhà trị giá là 500 triệu đồng và phải thanh toán cho ông A 200 triệu đồng. Trong trường hợp này, số phí thi hành án mà các bên phải nộp được tính trên giá trị tài sản thực nhận của từng người, cụ thể như sau:

+ Số phí thi hành án ông A phải nộp là: 3% x 200 triệu đồng = 06 triệu đồng;

+ Số phí thi hành án bà B phải nộp là: 3% x (500 triệu đồng - 200 triệu đồng) = 09 triệu đồng.

- Trường hợp nhiều người được nhận một tài sản cụ thể hoặc nhận chung một khoản tiền theo bản án, quyết định nhưng chỉ có một hoặc một số người có yêu cầu thi hành án mà Chấp hành viên đã tổ chức giao tài sản, khoản tiền đó cho người đã yêu cầu hoặc người đại diện của người đã có yêu cầu để quản lý thì người yêu cầu hoặc người đại diện đó phải nộp phí thi hành án tính trên toàn bộ giá trị tiền, tài sản thực nhận theo mức tại bảng trên.

- Trường hợp cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định thi hành án nhưng chưa ra quyết định cưỡng chế thi hành án hoặc đã ra quyết định cưỡng chế thi hành án nhưng chưa thực hiện việc cưỡng chế thi hành án mà đương sự tự giao, nhận tiền, tài sản cho nhau thì người được thi hành án phải nộp 1/3 mức phí thi hành án trên số tiền, tài sản thực nhận, trừ trường hợp không phải chịu phí thi hành án theo quy định tại khoản 8 Điều 6 Thông tư 216/2016/TT-BTC.

- Trường hợp cơ quan thi hành án dân sự đã thu được tiền hoặc đã thực hiện việc cưỡng chế thi hành án thì người được thi hành án phải nộp 100% mức phí thi hành án tính trên số tiền, tài sản thực nhận.

 

3. Có nên thu phí thi hành án dân sự thuộc diện chủ động?

Hiện nay vẫn có nhiều ý kiến khác nhau tranh luận về việc có thu phí thi hành án không đối với việc thi hành án thuộc diện chủ động như: trả lại tiền, tài sản do cơ quan điều tra thu giữ, tạm giữ.

- Ý kiến thứ nhất cho rằng: cần phải thu phí thi hành án đối với các trường hợp trên vì: căn cứ theo quy định tại Điều 60 Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014 thì người được thi hành án phải nộp phí thi hành án dân sự, người được thi hành án khi nhận được tiền, tài sản theo Bản án, Quyết định của Tòa án thì phải nộp phí thi hành án, kể cả trường hợp người được thi hành án không phải là người nộp đơn yêu cầu thi hành án. 

- Ý kiến thứ hai cho rằng: không thu phí đối với việc thi hành án thuộc diện chủ động như: trả lại tiền, tài sản do cơ quan điều tra thu giữ, tạm giữ. Vì đây là trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc trả lại tài sản đã thu giữ, tạm giữ. Hơn nữa những khoản tiền, tài sản này không phát sinh trong quá trình giải quyết việc thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự.

Việc không thu phí thi hành án đối với việc thi hành án thuộc diện chủ động. Tuy nhiên, xét ở khía cạnh áp dụng pháp luật thì cách hiểu của ý kiến thứ nhất mới đúng. Bởi vì, rõ ràng hiện nay pháp luật về thi hành án dân sự không có một quy định nào phân biệt việc thu phí thi hành án trong trường hợp theo đơn yêu cầu và theo diện chủ động và cũng không có bất cứ một quy định nào chỉ ra rằng chỉ thu phí thi hành án trong trường hợp thi hành theo đơn yêu cầu.

Cùng với những lập luận ở ý kiến thứ nhất, thì có thể thấy nếu cơ quan thi hành án dân sự tiến hành thu phí đối với việc thi hành án thuộc diện chủ động như: trả lại tiền, tài sản do cơ quan điều tra thu giữ, tạm giữ cho đương sự là đúng pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, hầu hết các cơ quan thi hành án dân sự đều không thu phí đối với các vụ việc thuộc diện thi hành án chủ động.

Từ những nguyên nhân trên mà hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến tranh luận xung quanh việc thu hay không thu phí thi hành án đối với các khoản thi hành án theo diện chủ động. Nhưng trên thực tế thì hầu hết các cơ quan thi hành án dân sự đều thống nhất không tiến hành thu phí đối với khoản thi hành án chủ động. Trong khi không có bất cứ một căn cứ pháp lý để giải thích cho cách giải quyết này. Đây là một vấn đề bất cập khá nghiêm trọng cần sớm được giải quyết trong thời gian tới.

Xem thêm: 

Nếu quý khách còn vướng mắc về vấn đề trên hoặc mọi vấn đề pháp lý khác, quý khách hãy vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi qua Luật sư tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến qua tổng đài1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp qua tổng đài kịp thời hỗ trợ và giải đáp mọi thắc mắc. Nếu quý khách cần báo giá dịch vụ pháp lý thì quý khách có thể gửi yêu cầu báo phí dịch vụ đến địa chỉ email: lienhe@luatminhkhue.vn để nhận được thông tin sớm nhất! Rất mong nhận được sự hợp tác và tin tưởng của quý khách! Luật Minh Khuê xin trân trọng cảm ơn!