Mục lục bài viết
- 1. Thành tựu ở phương thức bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử
- 2. Thuận lợi ở điều kiện cơ bản đảm bảo công lý trong hoạt động xét xử
- 3. Hạn chế ở hoạt động thực hiện nội dung bảo vệ công lý
- 4. Hạn chế ở phương thức bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử
- 4.1. Vụ án hôn nhân và gia đình “Ly hôn” theo Án lệ số 03/2016/AL
- 4.2. Vụ án kinh doanh thương mại “Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm” theo Án lệ số 37/2020/AL
1. Thành tựu ở phương thức bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử
Để đạt được thành tựu ở hoạt động thực hiện nội dung bảo vệ công lý, chủ thể xét xử phải có phương thức bảo vệ công lý đúng đắn trong quá trình xét xử vụ án, được thể hiện qua hoạt động đánh giá chứng cứ khoa học và hoạt động điều hành phiên tòa bảo đảm nguyên tắc công khai và tranh tụng.
Theo đánh giá chung, hoạt động đánh giá chứng cứ ở các vụ án đã được các chủ thể xét xử thực hiện đúng, khoa học, phù hợp, nên trong thời gian qua, nhất là các vụ án hình sự, các Tòa án đã hạn chế các trường hợp kết án oan, trong 05 năm qua chỉ có 02 trường hợp, giảm hơn nhiều so với các năm trước.... Hoạt động điều hành phiên tòa đã có nhiều chuyển biến tích cực. Việc bảo đảm công khai các thủ tục tố tụng, công khai chứng cứ, công khai ý kiến, quan điểm của các bên... hầu hết được thực hiện qua bảo đảm nguyên tắc tranh tụng. Đáng chú ý là vấn đề công khai các phán quyết của Tòa án. Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP ngày 16/3/2017 và Công văn số 144/TANDTC-PC ngày 04/7/2017 về việc công bố bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án. Đây là giải pháp Tòa án nhân dân tối cao mới triển khai thực hiện và đã được dư luận đánh giá cao. Trang thông tin điện tử của Tòa án (tính đến cuối năm 2019) đã công bố hơn 430.000 bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của các Tòa án, qua đó đã góp phần nâng cao trách nhiệm nghề' nghiệp của các Thẩm phán, cũng như tạo điều kiện để nhân dân tham gia giám sát hoạt động xét xử của Tòa án. Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2017 quy định về phòng xử án và Thông tư số 02/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2017 về quy chế tổ chức phiên tòa. Theo đó, việc bố trí phòng xử án đã thể hiện vị trí, vai trò trung tâm của chủ thể xét xử; bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án, quyền bào chữa của bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đảm bảo tính tranh tụng về mặt hình thức. Nguyên tắc tranh tụng nhìn chung đã được các Tòa án đảm bảo thực hiện tương đối đầy đủ, nên trong phạm vi nhất định đã giúp cho chủ thể xét xử xét xử toàn diện, khách quan, phán quyết chính xác, đúng pháp luật, được xã hội đánh giá cao như vụ án Hồ Thị Phương Nga, Vn Pharma, Oceanbank.. .
2. Thuận lợi ở điều kiện cơ bản đảm bảo công lý trong hoạt động xét xử
Thành tựu đạt được ở hoạt động thực hiện nội dung bảo vệ công lý và phương thức bảo vệ công lý nêu trên là nhờ vào điều kiện cơ bản đảm bảo công lý đã được tổ chức, thực hiện tốt. Đó là: Tổ chức cấp ủy Đảng nơi công tác xét xử đã lãnh đạo đúng đắn; tính độc lập của Tòa án được phát huy đầy đủ; công tác tổ chức, hoạt động của Tòa án nơi xét xử được thực hiện tốt, đã phát huy năng lực, đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp của các chủ thể xét xử; pháp luật áp dụng giải quyết vụ án phù hợp với thực tiễn; điều kiện vật chất được đảm bảo... Những thuận lợi đó đã góp phần tích cực chung vào kết quả thực tiễn xét xử bảo vệ công lý.
Bên cạnh những thành tựu nêu trên, thực tiễn xét xử bảo vệ công lý vẫn còn có những hạn chế nhất định, vẫn có không ít những phán quyết thiếu sức thuyết phục, không nhận được nhiều sự đồng tình của xã hội; nói theo ngôn ngữ bình dân, đó là “khẩu phục nhưng tâm không phục”; do đó việc giúp xã hội giữ vững trật tự, ổn định và phát triển bền vững phần nào bị hạn chế. Thể hiện trên thực tế có thể thấy ở những dạng phán quyết sau đây:
- Phán quyết chỉ đảm bảo về mặt pháp luật nhưng chưa phù hợp với thực tế và bảo vệ công lý. Trường hợp này xảy ra khi pháp luật (gồm pháp luật nội dung và pháp luật hình thức) được áp dụng để giải quyết vụ việc chưa phù hợp với đòi hỏi thực tiễn của đời sống xã hội.
- Phán quyết đã bảo vệ được công lý nhưng chỉ đối với những vụ việc dễ dàng, còn những vụ án phức tạp, tốn kém thì phải mất nhiêu thời gian hoặc phải trải qua nhiều lần hủy sửa, hoặc tốn nhiều chi phí, kể cả chi phí phi chính thức mới đạt đến công lý. Trường hợp này xảy ra liên quan đến năng lực, trách nhiệm, đạo đức chưa xứng tầm của các cán bộ xét xử, cán bộ Tòa án; điều kiện vật chất phục vụ công tác xét xử chưa đảm bảo...
- Phán quyết đã bảo vệ được công lý nhưng chỉ dành cho những đối tượng có điều kiện tiếp cận pháp luật, có hiểu biết pháp luật, còn những đối tượng yếu thế thì khó khăn trong việc tiếp cận công lý. Trường hợp này liên quan đến chính sách, công tác giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý của Nhà nước còn chưa hiệu quả và công bằng...
- Phán quyết không bảo vệ được công lý nhưng không bị hủy, sửa do công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chưa tốt hoặc do có trở ngại về chi phí, thời gian, quan hệ... để đương sự có thể theo đuổi công lý vụ án đến cùng... Trường hợp này liên quan đến tính tích cực của các cấp ủy lãnh đạo, của hệ thống Tòa án hay quy định của pháp luật...
Ngoài ra, theo kết quả đánh giá xã hội về hoạt động của Tòa án trong công trình khảo sát “Chỉ số công lý năm 2015: Hướng tới một nền tư pháp vì dân” cho thấy: Các quan ngại từ phía các doanh nghiệp và người dân khi chọn Tòa án để giải quyết tranh chấp thì dẫn đầu là do “thủ tục tại Tòa án phức tạp, mất thời gian” chiếm 40%, quan ngại về sự “công tâm của Thẩm phán và cán bộ Tòa án” chiếm 34%. Nội dung khảo sát đã nhận xét:
“Khi có tranh chấp và vướng mắc pháp lý, người dân có xu hướng chọn tự giải quyết và không tìm tôi các cơ quan tư pháp, hay dịch vụ pháp lý (luật sư, trợ giúp pháp lý); hiệu quả giải quyết các khiếu nại hành chính còn thấp, hiệu quả trợ giúp không cao; người dân trên thực tế trong nhiều trường hợp phải chấp nhận “trả chi phí phi chính thức” cho được việc, và có quan ngại về tính liêm chính và công tâm của cán bộ các cơ quan công quyền. Rõ ràng là lựa chọn và xu hướng hành động của người dân dựa trên hiểu biết, kinh nghiệm của cá nhân, của cộng đồng và không kém phần quan trọng là niềm tin và kỳ vọng về các thiết chế hiện có”.
Theo “Chỉ số công lý năm 2017 - 2018” đánh giá về' chỉ số pháp quyền (rule of law) của 113 quốc gia trên thế giới dựa trên 8 yếu tố cơ bản: Quyền lực giới hạn (constraints on government powers), liêm chính (absence of corruption), nhà nước mở (open government), đảm bảo quyền cơ bản (fundamental rights), an ninh trật tự (order & security), thực thi pháp luật (regulatory enforcement), công lý trong lĩnh vực dân sự (civil justice) và công lý trong lĩnh vực hình sự (criminal justice); Việt Nam bị xếp hạng thứ 74/113, xếp thứ 11/15 trong các quốc gia Đông châu Á - Thái Bình Dương, đứng sau Malaysia, Indonesia và Thái Lan. Mới đây nhất, “Chỉ số công lý năm 2019” cũng dựa trên 8 yếu tố cơ bản nêu trên, Việt Nam bị tụt 02 bậc, xếp thứ 81/126, vẫn thứ 11/15 trong các quốc gia Đông châu Á - Thái Bình Dương... Và thực tế trong những năm gần đây, tình hình tội phạm ngày càng gia tăng và nguy hiểm, các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính có xu hướng gia tăng với tính chất ngày càng phức tạp, đang cho thấy tình hình trật tự an toàn xã hội hiện nay có nhiều vấn đề còn bất ổn...
Những hạn chế, bất cập xảy ra như trên bởi nguyên nhân hạn chế ở cả ba phương diện: Hoạt động thực hiện nội dung bảo vệ công lý, phương thức bảo vệ công lý và điều kiện cơ bản đảm bảo công lý trong hoạt động xét xử. Cụ thể:
3. Hạn chế ở hoạt động thực hiện nội dung bảo vệ công lý
Bên cạnh những phán quyết bị hủy, sửa (1,09% -1,35%) với những lý do như đã đề cập ở những bài trước, rõ ràng đó là những kết quả của việc không thực hiện đúng nội dung bảo vệ công lý. Đối với những phán quyết còn lại (tức 98,65% - 98,91% được giữ nguyên), việc thực hiện nội dung bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử vẫn còn có những hạn chế nhất định, trong đó có những hạn chế chỉ dừng ở mức rút kinh nghiệm và có cả những hạn chế có thể dẫn đến phán quyết bị hủy, sửa, do không có kháng cáo, kháng nghị nên chưa bị hủy, sửa... Những hạn chế này có thể được khái quát như sau:
Trong hoạt động bảo vệ công lý nội dung, có những trường hợp trong vụ án hình sự còn xác định sai tội danh, sai các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cho hưởng án treo không đúng, trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung thiếu căn cứ, có những trường hợp trong hồ sơ vụ án còn có mâu thuẫn trong các tài liệu, chứng cứ nhưng lại không trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung...; trong các vụ án dân sự và hành chính, có những trường hợp chưa xem xét đầy đủ các yêu cầu của đương sự, xác định sai đối tượng khởi kiện, đánh giá chứng cứ còn thiếu khách quan, toàn diện, nên dẫn đến giải quyết không đúng, không đủ hoặc vượt quá yêu cầu của họ...
Hoạt động bảo vệ công lý thủ tục ở một số vụ án còn chưa tốt, trong lĩnh vực hình sự vẫn còn xảy ra tình trạng vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn hoãn phiên tòa, vi phạm thời hạn gửi bản án, quyết định cho Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng...; trong lĩnh vực dân sự, vẫn còn xảy ra các vi phạm trong quá trình thụ lý, trả lại đơn khởi kiện, nhiều trường hợp tạm đình chỉ giải quyết vụ án thiếu căn cứ pháp luật, vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử, một số trường hợp xác định thiếu hoặc sai tư cách người tham gia tố tụng...; trong lĩnh vực hành chính, tiến độ giải quyết có nơi còn chậm, có trường hợp trả lại đơn khởi kiện không đúng, giải quyết vụ án không đúng thẩm quyền...
Bảo vệ công lý trong việc định chuẩn pháp lý trong việc giải quyết vụ án còn chưa đảm bảo, nên hoạt động áp dụng pháp luật ở một số vụ án không đúng, dẫn đến có những quyết định giải quyết không chính xác...
Bảo vệ công lý trong việc thể hiện phán quyết giải quyết vụ án còn chưa tốt, theo đánh giá hiện nay, vẫn còn không ít các bản án, quyết định viết cẩu thả, không thống nhất theo mẫu hướng dẫn, không phản ánh hết các hoạt động tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; sai sót về văn phong, chính tả; nhận định không sâu sắc, lập luận thiếu chặt chẽ, thậm chí có bản án giữa phần nhận định và phẩn quyết định còn mâu thuẫn với nhau. Theo thống kê của Tổng cục Thi hành án dân sự, tính đến ngày 30/9/2018, số việc bản án, quyết định tuyên không rõ, có sai sót cần phải đính chính, giải thích là 508 việc, cần kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là 132 việc. Với những bản án, quyết định như thế, hình thức thể hiện của công lý sẽ không được đảm bảo, phán quyết sẽ thiếu sức thuyết phục, không được xã hội tôn trọng.
4. Hạn chế ở phương thức bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử
Hạn chế ở hoạt động thực hiện nội dung bảo vệ công lý là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hạn chế trong thực tiễn xét xử bảo vệ công lý, còn hạn chế ở phương thức bảo vệ công lý là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hạn chế ở hoạt động thực hiện nội dung bảo vệ công lý.
Trong phương thức bảo vệ công lý, hoạt động đánh giá chứng cứ đóng vai trò quyết định. Khi hoạt động đánh giá chứng cứ không chính xác thì những nội dung bảo vệ công lý sẽ không thể được thực hiện đúng. Trong thực tiễn xét xử cho thấy, khi hoạt động đánh giá chứng cứ có sai lầm dẫn đến việc thực hiện không đúng các nội dung bảo vệ công lý, phán quyết vụ án đó sẽ phải bị hủy, sửa để bảo vệ công lý hoặc để cấp xét xử sau đó thực hiện tiếp nhiệm vụ bảo vệ công lý. Điển hình như những vụ án sau đây:
4.1. Vụ án hôn nhân và gia đình “Ly hôn” theo Án lệ số 03/2016/AL
Theo nội dung vụ án, chị Hồng và anh Nam kết hôn năm 1992, có đăng ký tại ủy ban xã. Chị Hồng khởi kiện yêu cầu ly hôn anh Nam. Các bên có tranh chấp về tài sản chung. Trong quá trình chung sống, chị Hồng và anh Nam có xây 01 căn nhà hai tầng vào năm 2002, đến năm 2005 có xây thêm một cái tum, trên thửa đất 80m2 tại xóm Vân Hòa, Hà Nội. Về nhà, hai bên thống nhất là tài sản chung. Riêng về đất thì các bên không thống nhất với nhau.
Theo chị Hồng: Đất là của gia đình ông Phác (bố đẻ anh Nam) được cấp đất giãn dân năm 1992, sau đó gia đình ông Phác đã họp và tuyên bố cho vợ chồng chị diện tích đất, không làm giấy tờ. Năm 2001, được ông Phác thông báo, anh Nam đi làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đã được cấp đứng tên hộ anh Nam, nên đất này là tài sản chung của vợ chồng. Chị yêu cầu được sử dụng nhà và đất nêu trên và thanh toán 1/2 giá trị đất và tài sản trên đất cho anh Nam.
Theo anh Năm: Thửa đất này do bố mẹ anh được cấp giãn dân năm 1992, bố mẹ chỉ cho vợ chồng ở nhờ chứ chưa cho vì gia đình anh còn đông anh em. Năm 2001, anh tự kê khai làm giấy tờ đất, gia đình anh không biết. Anh đồng ý trả lại đất cho ông Phác.
Theo ông Phát và bà Tài (bố mẹ anh Nam): Nguồn gốc đất là của ông được ủy ban xã cấp đất giãn dân năm 1992, ông có xây một căn nhà cấp 4 trên đó. Năm 1993, gia đình ông cho vợ chồng anh Nam và chị Hổng ra đó làm ăn sinh sống chứ không cho đất. Khi chị Hồng xin ly hôn thì gia đình mới biết anh Nam đã tự ý đứng tên quyền sử dụng đất từ năm 2001. Ông bà yêu cầu anh Nam và chị Hồng phải trả lại đất.
Bản án sơ thẩm số 03/2011/HNGĐ-ST ngày 17/5/2011 của Tòa án nhân dân huyện Thường Tín đã giải quyết cho chị Hồng và anh Nam ly hôn. Về' tài sản chung, xác định nhà trên đất là của chị Hồng và anh Nam, còn đất thì buộc chị Hồng và anh Nam phải trả lại cho gia đình ông Phác. Bản án phúc thẩm số 105/2011/LH-PT ngày 06/9/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tuyên y án sơ thẩm. Các bản án bị Hội đồng giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao họp ngày 03/5/2013 hủy để xét xử lại.
Trong vụ án này, khi đánh giá chứng cứ, cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã không chú ý đến nguyên lý phản ánh khách quan về một sự kiện, nên đã xác định không chính xác về' sự việc cho đất giữa gia đình ông Phát và vợ chồng chị Hồng, dẫn đến cách giải quyết vụ án không đúng (Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004).
Theo nội dung chứng cứ thể hiện, lời khai của chị Hổng cung cấp thông tin về việc vợ chồng chị được gia đình ông Phác cho đất và đi kèm với nó là có các thông tin xác thực khác về hoàn cảnh không gian, thời gian diễn ra sự việc củng cố như: Việc kê khai đăng ký đất đai được thực hiện theo chủ trương, công khai từ năm 2001; việc xây dựng nhà của vợ chồng chị Hồng, anh Nam vào năm 2001 và năm 2005 không có ai trong gia đình khiếu nại gì. Trong khi đó lời khai của anh Nam và gia đình ông Phát cung cấp thông tin về việc gia đình ông Phác chỉ cho vợ chồng chị Hồng và anh Nam ở nhờ, mặc dù có nhiều lời khai về phía gia đình ông Phách, anh Nam đồng ý về cùng một vấn đề nhưng lại không có các thông tin về hoàn cảnh không gian, thời gian diễn ra sự việc củng cố. Do đó, các chứng cứ thể hiện chị Hồng được gia đình ông Phác cho đất là có cơ sở khách quan hơn. Như nhận định của cấp giám đốc thẩm:
“Theo xác minh tại ủy ban nhân dân xã... thỉ năm 2001, xã tổ chức cho các hộ dân trong xã... đăng ký kê khai để xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng và các hộ kê khai tại trụ sở thôn xóm. Tất cả các hộ dân trong xã đểu được biết về chủ trương kê khai đất này. Ồng Phác là chủ đất nhưng không đi kê khai. Anh Nam đang ở trên đắt và là người đi kê khai làm thủ tục cấp giấy chứng nhận. Ngày 21/12/2001, anh Nam được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất... đứng tên hộ ông Phạm Gia Nam. Vợ chồng anh chị đã xây nhà 2 tầng kiên cố vào năm 2002 và đến năm 2005 thì xây thêm tum tầng 3. Ông Phác và các anh chị em trong gia đình anh Nam đều biết việc xây dựng trên của vợ chồng anh Nam, chị Hồng, nhưng cũng không ai có ý kiến gì. Như vậy, từ khi được cấp giấy chứng nhận (2001) cho đến khi có việc ly hôn của anh Nam, chị Hồng (2009), gia đình ông Phác cũng không ai có khiếu nại gì về việc cấp đất, xây nhà này. Điều đó thể hiện ý chí của gia đình ông Phác là đã cho anh Nam và chị Hồng diện tích đất nêu trên. Do đó, việc ông Phác và anh Nam khai rằng anh Nam tự ỷ kê khai giấy tờ đất, ông Phác không biết là không có cơ sở chấp nhận. Như vậy, có căn cứ xác định lời khai của chị Hồng về việc gia đình ông Phác đã cho anh chị diện tích đất trên, là có cơ sở. Do đó, việc Tòa án các cấp nhận định rằng anh Nam đi làm giấy tờ đất ông Phác không biết và việc chị Hồng khai gia đình chồng đã cho vợ chồng nhưng không có chứng cứ chứng minh, để xác định diện tích đất... là tài sản thuộc hộ gia đình ông Phạm Gia Phát; đồng thời, buộc anh Nam, chị Hồng trả lại đất cho gia đình ông Phác, là không đúng. Cần phải xác định diện tích đất tranh chấp trên là tài sản chung của vỢ chồng anh Nam, chị Hồng và khi chia phải coi anh Nam có công sức đóng góp nhiều hơn để chia theo công sức của mỗi bên và cần phải căn cứ vào nhu cầu về chỗ ở để chia hiện vật cho các bên nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đương sự' (Án lệ số 03/2016/AL)...
4.2. Vụ án kinh doanh thương mại “Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm” theo Án lệ số 37/2020/AL
Theo nội dung vụ án, Công ty N cung cấp, lắp đặt và vận hành 03 lò hơi cho Công ty cổ phần giấy s. Đồng thời Công ty N và Công ty bảo hiểm P1 ký kết các hợp đồng bảo hiểm nồi hơi và bảo hiểm trách nhiệm công cộng. Khoảng 0h30 ngày 13/11/2015, tại Công ty s xảy ra sự cố nổ lò hơi gầy thiệt hại cho Công ty N và Công ty s. Những tài sản bị thiệt hại tại Công ty s nằm trong phạm vi bảo hiểm nên Công ty N được bồi thường bảo hiểm về giá trị bị thiệt hại theo quy định của pháp luật, do đó Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã chấp nhận yêu cầu của Công ty N. Tuy nhiên, các bản án bị cấp giám đốc thẩm hủy để xét xử lại theo Quyết định giám đốc thẩm số 28/2018/KDTM-GĐT ngày 26/6/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố HỒ Chí Minh.
Những sai sót nghiêm trọng dẫn đến phán quyết bị hủy là cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã không xác định đúng chứng cứ thuộc về thông tin bổ trợ cũng như không xem xét, đánh giá toàn diện chứng cứ để giải quyết vụ án. Cấp giám đốc thẩm đã nhận định:
“Đối với việc tổn thất và bồi thường thấy rằng: Căn cứ Điều 48 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định: Phải thực hiện việc giám định tổn thất để xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất. Để từ đó, có căn cứ xác định khoản tiền Tổng công ty cổ phần bảo hiểm phải bồi thường. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chỉ quyết định thẩm định giá trị tài sản để từ đó lấy căn cứ buộc Tổng công ty cổ phần bảo hiểm p bồi thường là không có căn cứ... Sau khi xảy ra sự việc, hai bên thống nhất để Công ty cổ phần giám định B thực hiện việc giám định. Những Công ty cổ phần giám định B chưa giám định xong tổn thất do Công ty N chưa cung cấp đủ hồ sơ, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét vấn đề này mà đã buộc Tổng công ty cổ phần bảo hiểm p phải bồi thường cho Công ty N khi chưa đủ chứng cứ là không có căn cứ... Công ty N chưa cung cấp được chứng cứ để chứng minh đã bồi thường thiệt hại về vật chất cho bên thứ ba, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đều buộc Tổng công ty cổ phần bảo hiểm p phải bồi thường trách nhiệm công cộng... là chưa có căn cứ... Ngoài ra, giấy kiểm định kỹ thuật của Trung tâm kiểm định Công nghiệp II xác định: Lẩn kiểm định trước tháng 10/2013, nhưng hợp đồng bảo hiểm và chứng thư thẩm định giá lại xác định Lò sấy BIOMASS sản xuất năm 2014, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ vấn đề này mà đã quyết định buộc Tổng công ty cổ phần bảo hiểm p phải bồi thường cho Công ty N là chưa đủ căn cứ”.. (Án lệ số 37/2020/AL).
Trong các vụ án hình sự, việc đánh giá chứng cứ sai lầm dẫn đến phán quyết oan sai cần phải bị hủy, sửa được các cơ quan ngôn luận thông tin trên báo đài trong thời gian qua tương đối nhiều, nổi tiếng nhất phải kể đến các vụ án như Hàn Đức Long, Nguyễn Thanh Chấn, Huỳnh Văn Nén, Trần Văn Thêm, Bùi Minh Hải, Trần Văn Chiến, Nguyễn Minh Hải...
Đơn cử vụ án Nguyễn Thanh Chấn phải ngồi tù oan hơn 10 năm về tội “Giết người” theo Bản án phúc thẩm số 1241/PTHS ngày 27/7/2004 của Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án sơ thẩm số 45/HSST ngày 26/3/2004 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh. Theo các thông tin từ cơ quan ngôn luận, hoạt động đánh giá chứng cứ của hai cấp xét xử trong vụ án ông Chấn có những sai lầm nghiêm trọng như: Biên bản khám nghiệm hiện trường thể hiện rất rõ: “nạn nhân nằm trên vũng máu... phát hiện một lưỡi dao cạnh nạn nhân... nền nhà có nhiều vết chân trần dính máu... dấu tay có vết máu trên cửa...”. Tuy nhiên, hai cấp xét xử đã không khai thác triệt để những thông tin từ hiện trường mang lại, không yêu cầu giám định dấu vân tay, chân để xác định dấu vân tay, chân của ai, trong điều kiện, hoàn cảnh nào; không khai thác những thông tin về vật chứng để lại hiện trường là lưỡi dao, nguồn gốc của con dao này từ đâu; nạn nhân có vết đeo nhẫn trên tay mà không xác định chiếc nhẫn ở đâu... Tòa án tin vào cơ quan điều tra và cơ quan truy tố, chỉ dựa vào dấu vết kích thước bàn chân tại hiện trường khớp với số đo bàn chân của ông Chấn để khẳng định ông Chấn đã để lại dấu chân ở hiện trường, từ đó xác định ông Chấn là thủ phạm, xử phạt tù chung thân... Các bản án đã bị Quyết định tái thẩm số 01/QĐ TTG ngày 06/11/2013 của Tòa án nhân dân tối cao hủy để xét xử lại theo hướng tuyên ông Chấn vô tội...
Bên cạnh đó, trong phương thức bảo vệ công lý, khi chủ thể xét xử không thực hiện tốt nguyên tắc công khai và nguyên tắc tranh tụng sẽ làm cho hoạt động đánh giá chứng cứ thiếu hiệu quả, dẫn đến hạn chế trong việc thực hiện đúng đắn và toàn diện những nội dung bảo vệ công lý. Theo đánh giá hiện nay cho thấy:
- Trong việc thực hiện nguyên tắc công khai tại phiên tòa xét xử, quan trọng nhất là vấn đề công khai các phán quyết của Tòa án. Trong thời gian qua, quá trình triển khai thực hiện công tác này vẫn còn chậm, nhiều Thẩm phán thực hiện chưa nghiêm hoặc có đăng tải nhưng không đúng các văn bản hướng dẫn; các phán quyết có hiệu lực pháp luật được công bố tính đến cuối năm 2019 là hơn 430.000 bản án, quyết định, chưa đạt 1/3, số còn lại chưa được công bố là rất lớn (trừ những phán quyết phải đảm bảo công tác bí mật). Do đó, việc thực hiện nguyên tắc công khai còn chưa đạt yêu cầu, ảnh hưởng đến công tác giám đốc thẩm, tái thẩm và giám sát chung của xã hội vì mục đích bảo vệ công lý.
- Trong việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng, theo thực tế, các vụ án có Luật sư tham gia chủ yếu tập trung ở đô thị. Nhìn chung, các phiên tòa có Luật sư tham gia, các hoạt động tranh tụng được thực hiện, như đưa ra chứng cứ mới, triệu tập người làm chứng; việc tham gia xét hỏi của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng; việc phát biểu đánh giá chứng cứ; đề nghị áp dụng pháp luật; đề xuất ý kiến, lập luận bảo vệ... Còn phiên tòa không có Luật sư tham gia, nguyên tắc tranh tụng không được thể hiện nhiều. Đối với các vụ án hình sự, Kiểm sát viên thực hiện chức năng buộc tội, thể hiện quyền năng và tính chuyên nghiệp rất cao, trong khi đó người bị truy tố thường ít hiểu biết pháp luật nên không biết cách tự bảo vệ mình, không biết đưa ra các tình tiết giảm nhẹ cũng như tranh luận lại quan điểm của Kiểm sát viên nên chủ thể xét xử thường phải gợi ý để người bị truy tố trình bày. Đối với các vụ án dân sự, hành chính cũng vậy, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn và đối với người dân thuộc dân tộc ít người, họ lại càng không biết cách thu thập, cung cấp, trình bày chứng cứ, lập luận để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
Đánh giá về chất lượng thực hiện nguyên tắc tranh tụng, nhìn chung, một số Luật sư vẫn còn thiếu kinh nghiệm, kỹ năng hành nghề, tuân thủ quy tắc đạo đức nghề nghiệp còn chưa cao như cố tình kéo dài vụ án, gây phức tạp cho cơ quan, người tiến hành tố tụng, kích động đương sự... nên đã làm ảnh hưởng không ít đến chất lượng giải quyết vụ việc nói chung cũng như chất lượng tranh tụng nói riêng. Mặc dù vậy, về' phía Tòa án, việc đổi mới phiên tòa theo nguyên tắc tranh tụng đã được quán triệt và triển khai thực hiện qua nhiều năm, nhưng theo đánh giá, nhận thức của các Thẩm phán về yêu cầu của phiên tòa theo nguyên tắc tranh tụng cũng chưa thống nhất, vẫn có những Thẩm phán chưa chuẩn bị tốt; việc tổ chức, điều hành phiên tòa còn nặng về chủ động xét hỏi; chưa thực hiện hết thẩm quyền theo quy định của pháp luật; còn có tình trạng nể nang hoặc phụ thuộc vào kết quả điều tra, truy tố mà chưa chú trọng tổ chức việc tranh tụng tại phiên tòa, dẫn đến chất lượng xét xử hông đạt yêu cầu.