Mục lục bài viết
Luật sư tư vấn:
Vấn đề bạn quan tâm xin tổng hợp như sau:
1. Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam quá trình hình thành và phát triển
Trước thập niên 80 của Thế kỷ XX, ở Việt Nam sở hữu trí tuệ về thực chất chưa có khái niệm. Trên thực tế, việc khuyến khích cá nhân, tìm ra được những giải pháp dưới hình sáng kiến, cải tiến kỹ thuật hợp lý hóa sản xuất được áp dụng trong các xí nghiệp (doanh nghiệp) quốc doanh. Những sáng kiến cải tiến kỹ thuật chủ yếu nhằm giảm bớt lao động cơ bắp của người công nhân, tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu và năng lượng trong sản xuất có kế hoạch được tập trung cao độ theo pháp lệnh cụ thể - “chỉ tiêu pháp lệnh”. Khẩu hiệu thể hiện tư tưởng quyết tâm, có chủ đích và đầy khát vọng chủ quan của ý thức hệ tư tưởng tổn tại dai dẳng trong đội ngũ công nhân quốc doanh và lan truyền rộng rãi trong cộng đồng dân cư trong phạm vi toàn miền Bắc Việt Nam. Khẩu hiệu sản xuất: “Nhanh, nhiều, tốt, rẻ” đã được xem như một tư tưởng chỉ đạo, ảnh hưởng đến ý thức hệ của đội ngũ công nhân và nông dân lao động. Tuy nhiên, trong giai đoạn thập niên 60 đến 80 thế kỷ XX, tư tưởng này cũng đã được thể hiện bằng hành động cụ thể của đội ngũ người lao động, những cá nhân lao động điển hình có sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong sản xuất tại các nhà máy, xí nghiệp quốc doanh như một động lực tăng năng xuất lao động trong điều kiện nền sản xuất thủ công, cơ khí hóa từng bước... nhằm thoát nghèo và lạc hậu. Sở hữu trí tuệ bước đầu được xác định về khái niệm tại Việt Nam từ khi có Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1989 và Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả năm 1994.
Nếu tính thời gian Việt Nam có pháp luật về sở hữu trí tuệ đến năm 2019 này, đã có tuổi 30 năm (1989 - 2019). Với chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế, Việt Nam là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WT0) từ năm 1995. Với nhu cầu quan hệ kinh tế và thương mại với các nước trong tổ chức thương mại thế giới, quan hệ trong khu vực, quan hệ với các nước trên thế giới, Việt Nam đã xây dựng một hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ để đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế. Kể từ việc Chính phủ ban hành các Nghị định điều chỉnh từng nhóm đối tượng riêng biệt của quyền sở hữu trí tuệ và năm 1995, Bộ luật Dân sự đầu tiên của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ban hành, về quyền sở hữu trí tuệ được quy định tại Phần thứ VI của Bộ luật là: “Quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ”. Quy định về quyền tác giả Điều 745 đến Điều 779; quy định về quyền sở hữu công nhiệp từ Điều 780 đến Điều 825.
Về quyền tác giả: Những quy định về tác giả (Đ.745); chủ sở hữu tác phẩm (Điều 746); các loại hình tác phẩm được bảo hộ (Điều 747); các tác phẩm được bảo hộ theo quy định riêng của pháp luật (Điều 748); Tác phẩm không được nhà nước bảo hộ (Điều 749); các quyền của tác giả, quyền của chủ sở hữu tác phẩm; thừa kế quyền tác giả, thừa kế của đồng tác giả; hợp đồng sử dụng tác phẩm; quyền và nghĩa vụ của người biểu diễn, của tổ
chức sản xuất băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình, tổ chức phát thanh, truyền hình;
Về quyền sở hữu công nghiệp: Quy định các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp như sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa, đối tượng không được Nhà nước bảo hộ. Quyền của chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp, sử dụng hạn chế quyền sở hữu công nghiệp, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, chuyển giao công nghệp...
Tiếp theo Bộ luật Dân sự năm 1995 quy định về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ, Chính phủ ban hành Nghị định số 63/1996/NĐ-CP ngày 24 tháng 10 năm 1996 quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp.
Một bước phát triển mới của pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ là Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 được ban hành. Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009, nhằm khắc phục những bất cập và đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, thương mại của đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế. Sau Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 (Luật sửa đổi, bổ sung) được ban hành, một loạt các nghị định và Thông tư được ban hành để làm rõ các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, các văn bản pháp luật này là: Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 22 tháng 02 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số Điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan.
Thông tư liên tịch số 14/2016/TTLT-BTTTT-BKHCN, ngày 08 tháng 06 năm 2016 của Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn chi tiết về trình tự, thủ tục thay đổi, thu hồi tên miền vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ; Nghị định số 185/2013/NĐ-CP, ngày 15 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 29 tháng 8 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nhiệp.
Nghị định số 114/2013/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giống cây trồng, bảo vệ và kiểm dịch thực vật.
Căn cứ vào hệ thống các văn bản pháp luật về sở hữu trí tuệ ở Việt Nam từ hiệu lực cao là Luật Sồ hữu trí tuệ (sửa đổi, bổ sung năm 2009), các văn bản dưới luật như nghị đinh, các thông tư quy định và hướng dẫn thi hành Luật Sở hữu trí tuệ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế
Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WT0) cho nên Luật Sở hữu trí tuệ của Việt Nam được ban hành phù hợp với yêu cầu đối với quốc gia thành viên của Tổ chức thương mại thế giới.
Việt Nam đã quy định về Luật Sở hữu trí tuệ trong Bộ luật Dân sự năm 1995 và Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành năm 2005 và Luật Sở hữu ưí tuệ (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Những quy định của Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam phù hợp và tương thích với những quy định trong Hiệp định TRIPS. Cùng với việc ban hành Luật Sở hữu trí tuệ, Việt Nam tham gia các Điều ước quốc tế như Điều ước quốc tế về quyền tác giả, quyền liên quan và Công ước UPOV về bảo hộ giống cây trồng. Việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ Việt Nam đã mở ra các điều kiện thuận lợi cho các chủ thể trong nước và ngoài nước được hưởng chế độ bảo hộ sở hữu trí tuệ theo nguyên tắc đối xử quốc gia. Việt Nam luôn luôn quan tâm đến việc hoàn thiện pháp luật tương thích với những yêu cầu của Công ước Paris và Tổ chức Sở hũu trí tuệ thế giới.
Cùng với việc ban hành Luật Sở hữu trí tuệ, các văn bản quy phạm dưới luật cũng được quy định kịp thời để hướng dẫn chi tiết việc thực hiện các quy định của pháp luật về quyền tác giả; các đối tượng của quyền tác giả; các quyền liên quan đến quyền tác giả; điều kiện và trình tự xác lập quyền tác giả và quyền liên quan; quyền và nghĩa vụ của tác giả; quyền và nghã vụ của chủ thể có quyền liên quan đến quyền tác giả; thời hạn bảo hộ quyền tác giả; thừa kế quyền tác giả; phương thức bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan; các chế tài đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan...
Các biện pháp hành chính trong việc xác lập, duy trì, gia hạn hiệu lực của Bằng bảo hộ đối với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp được coi trọng. Nâng cao hiểu biết xã hội về sở hữu trí tuệ, tăng cường công tác hỗ trợ hoạt động sồ hữu trí tuệ trong các doanh nghiệp thuộc các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế khác nhau. Khuyến khích tạo ra công nghệ và áp dụng công nghệ mới.
Trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam đã điều chỉnh về sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, chủ thể của quyền sở hữu công nghệp, chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp, đại diện sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng...
Việt Nam là một quốc gia hội nhập với thế giới trong các hoạt động đầu tư nước ngoài, do vậy việc bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ luôn luôn được coi ttọng. Hoạt động sở hữu trí tuệ ở Việt Nam được vận hành theo một hệ thống pháp Luật Sở hữu trí tuệ ngày một hoàn thiện. Cơ chế bảo hộ quyền sỗ hữu trí tuệ tại Việt Nam cũng tuân thủ các Hiệp định, Điều ước, Công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ từ khâu lập pháp đến thực hiện pháp luật. Các cơ quan Tòa án, Hải quan, Kiểm tra thị trường luôn luôn phối kết hợp trong hành động để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với quyền hạn, chức năng của mình.
3. Tiến trình phát triển pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam
Hệ thống các văn bản pháp luật của Việt Nam về sở hữu trí tuệ tính đến thời điểm hiện nay tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều quy định không hợp lý, có phần phức tạp đã gây ra những khó khăn trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam về cơ bản được điều chỉnh theo nguyên tắc của pháp luật dân sự. Sau Hiến pháp, văn bản pháp luật có hiệu lực cao về vấn đề này là Bộ luật Dân sự năm 1995, quy định tại Phần thứ VI với 81 điều (từ Điều 745 đến Điều 825).
Do chỉ đề cập các khía cạnh dân sự của các mối quan hệ về sở hữu trí tuệ nên Bộ luật Dân sự không bao quát hết được các khía cạnh kinh tế, hành chính, các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền sở hữu trí tuệ.
Bộ luật Dân sự cũng không bao quát hết được các đối tượng sở hữu công nghiệp như:
- Bí mật kinh doanh;
- Chỉ dẫn địa lý;
- Tên thương mại;
- Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh;
- Thiết kế bố trí mạch tích hợp;
- Giống cây trồng mới.
Về lĩnh vực sở hữu trí tuệ, Việt Nam đã tham gia các hiệp định sau:
- Công ước Paris (1883 -1979) về bảo hộ sở hữu công nghiệp;
- Thỏa ước Madrid (1891 - 1979) về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa;
- Công ước Beme về bảo hộ tác phẩm Văn học, Nghệ thuật;
- Hiệp ước hợp tác bằng sáng chế - PCT (1979);
- Hiệp định về hợp tác sở hữu trí tuệ Việt Nam - Thụy Sỹ;
- Hiệp định về quan hệ quyền tác giả Việt Nam - Hoa Kỳ.
Hệ thống văn bản pháp luật trong nước có liên quan đến việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ gồm có: Hiến pháp nưốc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Xuất bản, Luật Khoa học và công nghệ, Luật Thương mại, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các văn bản dưới luật khác.
Hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm những quy định về sở hữu công nghiệp và những quy định về quyền tác giả.
Từ những năm 90, thế kỷ XX, những chính sách đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được triển khai đồng bộ và mạnh mẽ, nền kinh tế thị trường được khuyến khích mở rộng và được hỗ trợ bằng những chính sách hữu hiệu để phát triển, theo đó các hoạt động kinh tế đối ngoại được coi trọng, việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đã là những nhu cầu bức xúc của mọi cá nhân, tổ chức (đặc biệt là các doanh nghiệp) thuộc mọi thành, phần kinh tế và hình thức sở hữu khác nhau được thừa nhận sự tồn tại ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, sự tác động của chính sách phát triển khoa học công nghệ ở Việt Nam mà Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đề xướng đã nhanh chóng có hiệu quả.
Để thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Việt Nam đã trở thành thành viên của ASEAN vào năm 1995, do vậy cũng như các nước trong tổ chức này, Việt Nam đã ký Hiệp định khung ASEAN về lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
Đặc biệt vào tháng 7/2000 tại Thủ đô Washington hai đoàn đàm phán của Việt Nam và Hoa Kỳ đã tiếp tục vòng đàm phán lần thứ 8 và đã nhất trí với nhau về toàn bộ Dự thảo của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, dẫn đến việc Hiệp định này được ký kết vào ngày 13/7/2000 (theo giờ Washington) ngày 14/7/2000 giờ Việt Nam). Hiệp định có hiệu lực vào ngày 10/12/2001.
Việc Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết đã tạo điều kiện cho Việt Nam thực hiện cơ hội chủ trương hội nhập quốc tế trong quá trình phát triển kinh tế:
Thứ nhất, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã tạo ra những cơ hội trong hội nhập toàn diện hơn với các nền kinh tế Đông Nam Á và gia nhập WT0 (từ năm 1995, Việt Nam đã làm đơn xin gia nhập WT0 và hiện nay là quốc gia thành viên của tổ chức này).
Thứ hai, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội trong việc thâm nhập thị trường Hoa Kỳ nói riêng, thị trường Bắc Mỹ nói chung.
Thứ ba, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã tạo ra điều kiện và những cơ hội mới để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Hoa Kỳ là nước có trình độ khoa học và công nghệ cao, phát triển. Do vậy, theo Hiệp định này Việt Nam sẽ thu hút được nguồn vốn lớn bao gồm cả những thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao từ phía các nhà đầu tư của Hoa Kỳ.
Về lĩnh vực quyền tác giả: Hiệp định song phương về quyền tác giả Việt Nam - Hoa Kỳ được ký vào ngày 27/6/1997 (có hiệu lực từ ngày 23/12/1998). Đây là Hiệp định đầu tiên Việt Nam ký kết với nước ngoài ở một lĩnh vực mới mẻ và phức tạp.
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ cũng đề cập những vấn đề cơ bản trong việc bảo hộ quyền tác giả. Như vậy, Việt Nam đã có những hiệp định song phương với Hoa Kỳ về lĩnh vực sở hữu trí tuệ, theo đó, Việt Nam phải tham gia Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật (1971) trong thời hạn 24 tháng, Công ước Geneve về bảo hộ nhà xuất bản chống lại mọi hành vi sao chép trái nguyên tắc (Công ước Geneve, 1971), Công ước về phân phối các tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh (Công ước Brusels, 1974), trong vòng 30 tháng từ khi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực. Ngoài ra, để trở thành thành viên của tổ chức WT0, Việt Nam tham gia Hiệp định TRIPS về khía cạnh kinh tế của quyền sở hữu trí tuệ là yêu cầu bắt buộc của quá trình này.
Qua hai năm thực hiện Hiệp định song phương, các tác phẩm của Hoa Kỳ đã được bảo hộ ở Việt Nam. Phim của Hoa Kỳ được sử dụng phát sóng trên truyền hình Việt Nam chiếm 10% thời lượng của chương trình phim truyện, đều có thỏa thuận về quyền tác giả. Đài Truyền hình Việt Nam có Trung tâm khai thác bản quyền và trao đổi chương trình truyền hình, 9 bộ phim năm 1999 và 7 bộ phim năm 2000 của Hoa Kỳ phát sóng trên Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội có bản quyền do Công ty quảng cáo Tùng Hoa cung cấp. Ngoài ra, các loại ấn phẩm dưới dạng sách của Hoa Kỳ cũng đã được công bố tại Việt Nam. Năm 1999, 21 đầu sách văn học của Hoa Kỳ trên tổng số 8789 đầu sách Việt Nam đã xuất bản, năm 2000, con số này là 20.
Việt Nam với Thụy Sĩ ký Hiệp định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ vào ngày 7/7/1999 (có hiệu lực từ ngày 8/6/2000). Đầy là Hiệp định song phương thứ hai mà Việt Nam cam kết với nước ngoài về quyền tác giả. Hiệp định này điều chỉnh cả về quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp, gồm các quy định dẫn chiếu đến Hiệp định TRIPS trên cơ sở các nguyên tắc và chuẩn mực của Hiệp định này, đồng thời ràng buộc các bên phải tham gia một số Điều ước quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ (Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học - nghệ thuật (1971) và Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà xuất bản, ghi âm và tổ chức phát sóng (1961).
Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập liên quan đến sở hữu trí tuệ của Việt Nam, những khó khăn về mặt chủ quan và khách quan là những trở ngại không nhỏ tới quá trình hội nhập này.
Những quy định của pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ còn thiếu hoặc không còn phù hợp với các hiệp định song phương mà Việt Nam tham gia và cũng không phù hợp với những quy định của WIP0 và WTO.
1) Pháp luật Việt Nam chưa có những quy định cụ thể về các quyền liên quan đến quyền tác giả như quyền cho thuê, quyền nhập khẩu. Bên cạnh đó quyền của các tổ chức sản xuất băng ầm thanh, đĩa ầm thanh, băng từ hình, đĩa hình cũng chưa được pháp luật quy định đầy đủ, còn thiếu quyền phần phối, quyền bán và cho thuê;
2) Đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm nhiếp ảnh, pháp luật quy định có thời hạn bảo hộ là 50 năm, cao hơn thời hạn bảo hộ sản phẩm trí tuệ cùng loại mà Công ước Berne đã quy định (Công ước Beme quy định 25 năm);
3) Thời hạn bảo hộ những tác phẩm không tính theo đời người là 50 năm là phù hợp với quy định của Công ước Berne và Hiệp định TRIPS nhưng lại ngắn hơn so với quy định trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ về cùng thể loại là 25 năm (Hiệp định này quy định là 75 năm);
4) Quyền của các tổ chức sản xuất băng âm thanh, đĩa ầm thanh, băng từ hình, đĩa hình được pháp luật Việt Nam quy định thời hạn bảo hộ là 50 năm (thời hạn này cao hơn so với Công ước Roma (là 20 năm) phù hợp với Hiệp định TRIPS (50 năm) nhưng lại thấp hơn so với Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, quy định thời hạn là 75 năm (Theo Điều 766 BLDS sửa đổi tại khoản 4 và 5 của Điều luật cho phù hợp với Điếu ước quốc tế "Các quyền nhân thân quy định tại điểm c và điểm d khoản 1 Điều 751 và quyền tài sản quy định tại khoản 2 Điều 751 và khoản 2 Điều 752 của Bộ luật này được bảo hộ trong thời hạn bảy mươi lăm năm kể từ ngày kết thúc năm dương lịch mà tác phẩm được công bố lần đầu tiên (Khoản 4); "Đối với tác phẩm không rõ tác giả hoặc tác phẩm khuyết danh, thi quyền tác giả thuộc Nhà nước; nếu trong thời hạn bảy mươi lăm năm, kể từ ngày kết thúc năm dương lịch mà tác phẩm được công bố lần đầu tiên mà xác định được tác giả, thì quyền tác giả được bảo hộ theo quy định tại các khoản 1,2,3 và 4 Điều này và thời hạn bảo hộ được tính từ ngày xác đính được tác giả (khoản 5).
Căn cứ vào quy định tại Điều 788 Bộ luật Dân sự của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì:
"Quyền sở hữu công nghiệp là quyền sở hữu đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu đáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa và quyền sử dụng tên gọi xuất xứ hàng hóa được xác lập theo Bằng bảo hộ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp. Quyền sở hữu đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp khác cũng được xác lập theo quy định của pháp luật”.
Thực hiện từng bước hội nhập vào cộng đồng quốc tế thông qua việc tham gia Công ước Beme, các Công ước, Hiệp ước thuộc lộ trình gia nhập tổ chức WTO, Việt Nam cẩn tham gia vào một cố Công ước về lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ;
- Công ước Geneve năm 1971 về bảo hộ người sản xuất chương trình ghi âm, chống lại sự sao chép trái phép;
- Công ước quốc tế về bảo hộ giống thực vật mới năm 1978 và năm 1991;
- Công ước Brussels về phân phối tín hiệu, mạng chương trình truyền qua vệ tinh năm 1974;
- Hiệp định TRIPS về các khía cạnh kinh tế của quyền sở hữu trí tuệ;
Hiện tại, Việt Nam đã tham gia các Hiệp định và các công ước sau: Công ước Paris (1883 - 1979) về bảo hộ sở hữu công nghiệp. Thỏa ước Madrid (1891 - 1979) về đăng ký quốc tế nhãn nhiệu hàng hóa, Hiệp ước hợp tác bằng sáng chế PCT, 1970; Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ; Hiệp định về hợp tác sở hữu trí tuệ Việt Nam - Thụy Sỹ; Hiệp định về quyền tác giả Việt Nam - Hoa Kỳ.
Việt Nam đang tạo ra những điều kiện để có cơ hội gia nhập tổ chức Thương mại thế giới, thầm nhập thị trường và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Vì vậy, Việt Nam cũng chịu những thách thức lớn như phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường thế giới, thực hiện những "luật chơi" kinh doanh quốc tế với điều kiện là một nước đang phát triển, Việt Nam sẽ phải chịu nhiều ảnh hưởng.
Trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ, cho đến thời điểm hiện nay, Việt Nam đã có những quy định khá đầu đủ để thực hiện việc bảo hộ sở hữu trí tuệ cùng với việc ban hành những văn bản pháp luật quy định bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp mới (những đối tượng chưa được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 1995).
- Việc bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp mới là do nhu cầu của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh của quá trình hội nhập quốc tế.
- Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các đối tượng mới nhằm mục đích sản xuất và lưu thông hàng hóa trong nước, trong khu vực, hội nhập quốc tế và phục vụ cho công việc xuất nhập khẩu.
Đứng trước chương trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập tổ chức WTO, Việt Nam phải quan tâm đến những lợi ích ổn định lâu dài, những yếu tố tích cực có ảnh hưởng lớn đến công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong suốt quá tình hội nhập khu vực và quốc tế. Về lĩnh vực sở hữu trí tuệ, WTO đòi hỏi các nước thành viên trong một thời hạn nhất định phải xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Một trong những tiêu chuẩn được coi là đầy đủ là hệ thống pháp luật bảo hộ tất cả đối tượng sở hữu trí tuệ được liệt kê trong Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại (Hiệp định TRIPS - WTO) trong đó, bao gồm những đối tượng sở hữu công nghiệp mới (Các hiệp định của WTO có hiệu lực vào ngày 01/01/1995, các nước phát triển có thời hạn 1 năm (đến 31/12/1999) phải đáp ứng yêu cầu của Hiệp định TRIPS về hệ thống pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Những nước kém pháp luật có thời hạn 11 năm (năm 2006). Hiện nay gia hạn đến năm 2006 đối với việc bảo hộ những sáng chế thuộc lĩnh vực dược phẩm. Đối với nước đang phát triển, không có hệ thống bảo hộ Patent sản phẩm trong lĩnh vực cụ thể, thì khi Hiệp định TRIPS có hiệu lực, nước này có thời hạn tối đa là 10 năm để thực hiện việc bảo hộ này, trừ hệ thống bảo hộ đối với dược phẩm và nông dược phẩm). Nhu cầu gia nhập WTO của Việt Nam rất cần thiết, do vậy Việt Nam phải có những quy định bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp mới. Việt Nam phấn đấu đạt những mục đích cơ bản sau khi các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp được bảo hộ tại Việt Nam.
Tham gia tổ chức WTO là một trong những tiêu chí đề đánh giá mức độ hội nhập của nển kinh tế, đáp ứng những yêu cầu của Hiệp định TRIPS là một lộ trình có tính nguyên tắc được áp dụng đối với mọi quốc gia xin gia nhập WTO. Như vậy, Việt Nam bảo hộ những đổi tượng sở hữu công nghiệp mới là một trong những điều kiện quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình gia nhập WTO của Việt Nam (Tính đến tháng 4/2003 có có 146 quốc gia và vùng lãnh thổ là thành viên).
Những quy định của pháp luật Việt Nam bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp mới:
- Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày 03/10/2000 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các đối tượng:
- Bí mật kinh doanh;
- Chỉ dẫn địa lý;
- Tên thương mại;
- Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp;
- Nghị định số 13/2001/NĐ-CP ngày 20/4/2001 về bảo hộ giống cây trồng mới;
- Nghị định Số 42/2003/NĐ-CP ngày 02/5/2003 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với thiết kế bố trí mạch thích hợp (Nếu so sánh với Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ về những đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ thì Việt Nam còn thiếu đối tượng: Tín hiệu vệ tinh mang chương trình mã hóa).
Những quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp mới, theo chúng tôi đã có sự phù hợp với những đòi hỏi của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và Hiệp định TRIPS. Tuy vậy, ở Việt Nam chưa có những cơ quan có trình độ chuyên môn cao để giúp cho Quốc hội trong quá trình lập pháp về lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Ở Việt Nam chưa có sự phối hợp, kết hợp chặt chẽ giữa các Bộ cụ thể như Bộ Thương mại, Bộ Khoa học - Công nghệ. Tổng cục Hai quan, Bộ Công nghiệp, Bộ Bưu chính - Viễn thông, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn trong việc tạo điều kiện thuận lợi và đóng vai trò cố vấn trong việc lập pháp của Quốc hội về lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
Trong thời gian từ năm 2000 - 2003, một số văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực sở hữu trí tuệ đã được ban hành:
- Nghị định số 54/2000/NĐ-CP của Chính phủ về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh và Nghị định số 42/2003/NĐ-CP của Chính phủ về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn đã là những giải pháp kịp thời đối phó với sức ép từ bên ngoài trước yêu cầu của "luật chơi" trong quá trình Việt Nam tham gia hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì điều kiện nền kinh tế Việt Nam chuyên sang nển kinh tế thị trường chưa lâu, cơ sở hạ tầng còn chưa bền vững và chắc chắn, phần lớn các doanh nghiệp hoạt động có quy mô nhỏ, vốn đầu tư thấp, thường xuyên thiếu vốn, công nghệ lại lạc hậu, do vậy khả năng cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế không cao, theo đó khả năng cạnh tranh rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới (Theo diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), năm 2003, Việt Nam là quốc gia đứng thứ 59 về khả năng cạnh tranh trong sỗ các nước và khu vực được khảo sát). Một điều mà ai cũng nhận thấy, Việt Nam là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số làm nghề nông, thu nhập bình quân đầu người hàng năm rất thấp, do vậy thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp ở Việt Nam không tránh khỏi những khó khăn, nạn làm hàng giả theo đó mà hoành hành thị trường tự do vì giá rẻ.
Mọi vướng mắc pháp lý trong lĩnh vự sở hữu trí tuệ bạn có thể sử dụng: Dịch vụ luật sư tư vấn pháp luật qua email hay Dịch vụ luật sư tư vấn pháp luật sở hữu trí tuệ trực tuyến qua tổng đài điện thoại, gọi: 1900.6162, hoặc có thể Đặt lịch để gặp luật sư tư vấn trực tiếp tại văn phòng. Đội ngũ luật sư của Công ty luật Minh Khuê luôn sẵn sàng phục vụ bạn./.