1. Nghị định thư là gì? 

Có thể hiểu một cách đơn giản, nghị định thư là một loại văn kiện được ký kết giữa các nước về một vấn đề nào đó liên quan tới các quan hệ chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa,... Thông thường, nghị định thư là văn bản, tài liệu để bổ sung cho các Điều ước quốc tế (Hiệp định, Hiệp ước, Công ước,...), được ban hành để cụ thể hóa những điểm mà Điều ước quốc tế chỉ nói khái quát, nêu lên phương thức hay các biện pháp áp dụng thi hành. 

Theo pháp luật Việt Nam, nghị định thư được coi là một loại văn kiện quốc tế có trật tự ký kết và thực hiện tuân thủ những quy định trong Pháp lệnh về kí kết và thực hiện điều ước quốc tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 20/8/1998.

Một hiệp định, công ước quốc tế có thể có một hoặc nhiều nghị định thư hướng dẫn kèm theo. Ví dụ: Hiệp định Paris năm 1973 về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình tại Việt Nam có 2 nghị định thư kèm theo: Nghị định thư về việc trao trả nhân viên quân sự bị bắt, thường dân nước ngoài bị bắt và nhân viên dân sự Việt Nam bị bắt và giam giữ; Nghị định thư về uỷ ban quốc tế kiểm soát và giám sát. 

Nghị định thư cũng có thể là thỏa thuận quốc tế về các vấn đề trong phạm vi nhất định như Nghị định thư Giơnevơ năm 1925 về việc cấm sử dụng trong chiến tranh các chất gây ngạt, các chất độc và các loại vũ khí vi trùng.

 

2. Các nghị định thư phổ biến trên thế giới

2.1. Nghị định thư Kyoto

Nghị định thư Kyoto là một nghị định liên quan đến Công ước khung Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu tầm quốc tế của Liên hợp quốc với mục tiêu cắt giảm lượng khí thải gây ra hiệu ứng nhà kính. Là một trong những Nghị định thư tiền đề hình thành nên khái niệm "ngoại giao khí hậu" khi các diễn biến phức tạp của khí hậu cùng các hệ quả của nó gây ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ quốc tế. Việt Nam ký nghị định thư vào ngày 03/12/1998 và phê chuẩn vào ngày 25/9/2002.

Nội dung chính của Nghị định thư Kyoto chính là đưa ra các mục tiêu mang tính chất bắc buộc đối với các các nước công nghiệp là thành viên và Liên minh Châu Âu (EU) về việc giảm lượng khí thải nhà kính. Theo đó, các nước này đến năm 2012 phải giảm lượng phát thải khí nhà kính, chủ yếu là carbon dioxit, ít nhất 5% so với mức phát thải năm 1990. Bên cạnh đó, mức giảm cụ thể áp dụng cho từng quốc gia sẽ thay đổi khác nhau. Ví dụ, các nước EU là 8%, Mỹ 7%, Nhật Bản 6%, Australia 8%,.... Riêng một số quốc gia vốn có lượng khí phát thải nhà kính thấp được phép tăng lượng phát thải, như Na Uy được tăng 1% hay Iceland 10%.

Các nước tham gia vào Nghị định thư Kyoto phải chịu sự giám sát và quản lý bởi các nguyên tắc của Liên hợp quốc về lượng khí thải cắt giảm. Các quốc gia được chia làm 2 nhóm: nhóm các nước phát triển thuộc Phụ lục I của Nghị định thư và nhóm các nước đang phát triển nằm ngoài Phụ lục I của Nghị định thư. Theo đó, các nước thuộc nhóm phát triển tại Phụ lục I buộc phải có bản đệ trình thường niên về các hành động cắt giảm khí thải; các nước thuộc nhóm đang phát triển sẽ ít chịu ràng buộc hơn so với các nước thuộc nhóm phát triển.

Vào năm 2009, Liên hợp quốc cùng các nhà lãnh đạo thế giới đã gia tăng hợp tác và bàn thảo một thỏa thuận môi trường thay thế Nghị định thư Kyoto. Tuy nhiên, sau khi trải qua không ít các vòng đàm phán liên tiếp, các nước vẫn chưa đi đến một sự đồng thuận nào về vấn đề này, do còn nhiều khác biệt về lợi ích (đặc biệt là xung đột lợi ích giữa môi trường và hiệu quả kinh tế) giữa các quốc gia.

 

2.2. Nghị định thư Montreal

Nghị định thư Montreal là một nghị định thư liên quan đến Công ước Vienna về các chất làm suy giảm tầng ôzôn. Đây là nghị định thư được thiết kế để bảo vệ tầng ôzon bằng cách loại bỏ dần việc sản xuất nhiều các chất được cho là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự suy giảm tầng ôzon. Hiệp ước này được mở ký kết vào ngày 16 tháng 9 năm 1987, đã có hiệu lực từ ngày 01 tháng 1 năm 1989 sau cuộc họp đầu tiên tại Helsinki. Việt Nam đã tham gia phê chuẩn nghị định thư này vào tháng 1/1994.

Hiệp ước được cấu trúc xung quanh một số nhóm hydrocacbon halogen hóa làm suy giảm tầng ozone tầng bình lưu. Tất cả các chất làm suy giảm tầng ozone được kiểm soát bởi Nghị định thư Montreal đêu chứa clo hoặc brom (các chất chỉ chứa flo không hây hại cho tầng ozone). Một số chất làm suy giảm tầng ozone (ODS) chưa được kiểm soát bởi Nghị định thư Montreal, bao gồm oxit nitơ (N2O). Bên cạnh đó, một số nội dung cơ bản của nghị định thư Montreal quy định như sau:

- Bắt đầu từ ngày 1/1/2010, loại bỏ hoàn toàn chất làm suy giảm tầng ozone nhóm CFC (clorofluorocarbon)

- Từ năm 2010 trở đi, tất cả những nước thành viên sẽ triển khai loại bỏ những chất HCFC (hydrochlorofluorocarbon), đây là một nhóm các hợp chất nhân tạo có chứa hydro, clo, flo và carbon. 

- Đến năm 2030, những nước đang phát triển phải loại bỏ hoàn toàn những chất HCFC. 

Kể từ khi được thông qua vào năm 1987 và đến cuối năm 2014, nghị định thư Montreal đã loại bỏ thành công hơn 98% ODS được kiểm soát, giúp đảo ngược thiệt hại cho tầng ozone. 

Người ta tin rằng, nếu các thỏa thuận trong nghị định thư Montreal được tôn trọng và thực hiện một cách thỏa đáng, tầng ozone dựn kiến sẽ phục hồi vào năm 2050. Hiện nay, nghị định thư Montreal được ký kết bởi 197 quốc gia, đây là hiệp ước đầu tiên trong lịch sử Liên hợp quốc đạt được phê chuẩn toàn cầu thống nhất. 

 

2.3. Nghị định thư Madrid

Nghị định thư Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa là hiệp ước quốc tế về đăng ký nhãn hiệu được các nước thành viên trong Liên hiệp Madrid thông qua tại thành phố Madrid, Tây Ban Nha ngày 27 tháng 6 năm 1989. 

Nghị định thư Madrid và Thỏa ước Madrid đã tạo nên liên minh Madrid, gọi chung là hệ thống đăng ký quốc tế Madrid. Tính đến tháng 07 năm 2019, hệ thống Madrid đã có 105 thành viên, đại diện cho 121 quốc gia và vùng lãnh thổ. Theo đó, Việt Nam đã tham gia và được phê chuẩn là thành viên, do đó nghị định thư Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa có hiệu lực tại Việt Nam kể từ ngày 11/7/2006.

Điểm nổi bật của nghị định thư Madrid về việc đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa là việc đăng ký nhãn hiệu quốc tế tại các nước thành viên được dựa trên đơn đăng ký đã nộp tại nước xuất xứ; không bắt buộc phải đợi đến thời điểm nhãn hiệu đó được cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tại nước sở tại thì mới có thể làm thủ tục (chỉ cần nộp hồ sơ ở nước sở tại). Dễ hiểu hơn, bạn chỉ cần làm thủ tục đăng ký nhãn hiệu 1 lần tại 1 quốc gia là thành viên của hệ thống, từ đó mà nhãn hiệu của bạn có thể được bảo hộ tại tất cả các quốc gia mà bạn chỉ định trong đơn đăng ký.

Đồng thời, bạn cũng sẽ giảm bớt thời gian và thủ tục khi thực hiện các công việc sửa đổi, chuyển nhượng, gia hạn bằng việc chỉ cần thực hiện 1 thủ tục theo hệ thống Madrid. 

Trên đây là toàn bộ phần tư vấn của chúng tôi về vấn đề Nghị định thư là gì và các nghị định thư phổ biến trên thế giới cũng như một số vấn đề khác có liên quan. Cảm ơn quý khách hàng đã quan tâm theo dõi bài viết của Luật Minh Khuê.

Nếu có bất kỳ vướng mắc nào, quý khách hàng vui lòng liên hệ trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7. Gọi số 1900.6162 hoặc gửi email chi tiết tại: Tư vấn pháp luật qua Email. Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác từ quý khách hàng. Trân trọng./.