Mục lục bài viết
- 1. Nghĩa vụ của các nhà nước trong việc bảo đảm nhân quyền thể hiện cụ thể như thế nào?
- 2. Thế nào là hành động thụ động và chủ động trong việc thực thi nhân quyền?
- 3. Yêu cầu thực hiện các quyền dân sự, chính trị và các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa có gì khác nhau?
- 4. Phải chăng các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa không phải là các quyền thực chất?
- 5. Có khi nào một quốc gia có thể tạm đình chỉ thực hiện các quyền con người hay không?
- 6. Luật quốc tế đặt ra yêu cầu gì với các quốc gia trong việc tạm đình chỉ thực hiện quyền con người?
- 7. Luật quốc tế đặt ra những tiêu chí nào để đánh giá tính phù hợp của việc tạm đình chỉ thực hiện quyền?
Kính chào công ty Luật Minh Khuê. Xin luật sư cho biết, nhà nước có nghĩa vụ như thế nào trong việc bảo đảm quyền con người? Thế nào là hành động thụ động và chủ động trong việc thực thi nhân quyền? Rất mong nhận được phản hồi từ luật sư. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người gửi: Đặng Lan - Tây Ninh
Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Dân sự của Công ty luật Minh Khuê
>> Luật sư tư vấn pháp luật Dân sự, gọi: 1900 6162
Trả lời:
Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Công ty Luật Minh Khuê. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:
1. Nghĩa vụ của các nhà nước trong việc bảo đảm nhân quyền thể hiện cụ thể như thế nào?
Theo Nhận thức phổ biến của cộng đồng quốc tế, để bảo đảm nhân quyền, các nhà nước có ba nghĩa vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất, nghĩa vụ tôn trọng (obligation to respect): Nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà nước không được tuỳ tiện tước bỏ, hạn chế hay can thiệp, kể cả trực tiếp hoặc gián tiếp, vào việc hưởng thụ các quyền con người. Đây được coi là một nghĩa vụ thụ động (negative obligation) bởi lẽ không đòi hỏi các nhà nước phải chủ động đưa ra những sáng kiến, biện pháp hay chương trình nhằm hỗ trợ các công dân trong việc hưởng thụ các quyền.
Thứ hai, nghĩa vụ bảo vệ (obligation to protect): Nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà nước phải ngăn chặn sự vi phạm nhân quyền của các bên thứ ba. Đây được coi là một nghĩa vụ chủ động (positive obligation) bởi đê’ ngăn chặn sự vi phạm nhân quyền của các bên thứ ba, các nhà nước phải chủ động đưa ra những biện pháp và xây dựng các cơ chế phòng ngừa, xử lý những hành vi vi phạm.
Thứ ba, nghĩa vụ thực hiện (obligation to fulfil): Nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà nước phải có những biện pháp nhằm hỗ trợ công dân trong việc thực hiện các quyền con người. Đây cũng được coi là nghĩa vụ chủ động, bởi nó yêu cầu các nhà nước phải có những kế hoạch, chương trình cụ thể đê’ bảo đảm cho mọi công dân được hưởng thụ đến mức cao nhất có thể các quyền con người.
Ngoài ra, liền quan đến bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, người ta còn đề cập đến các khái niệm nghĩa vụ tô’ chức (obligation of conduct) và nghĩa vụ đạt được kết quả (obligation of result). Nghĩa vụ tổ chức được hiểu là việc các quốc gia phải thực hiện trong thực tế các biện pháp cụ thề’ đê’ bảo đảm thực thi các quyền, ví dụ như để cấm lao động cưỡng bức, đưa ra các chưong trình chăm sóc sức khỏe cho nhân dân hay bảo đảm giáo dục tiểu học miễn phí cho mọi trẻ em... Nghĩa vụ đạt được kết quả đề cập tới yêu cầu với các quốc gia phải bảo đảm rằng những biện pháp và hoạt động đề ra phải mang tính khả thi và hiệu quả, chứ không phải chúng được xây dựng một cách hình thức.
2. Thế nào là hành động thụ động và chủ động trong việc thực thi nhân quyền?
Trong quá trình bảo đảm nhân quyền, trong những hoàn cảnh nhất định, với những quyền nhất định, chỉ cần các nhà nước tôn trọng, không tuỳ tiện hạn chế, tước bỏ hay can thiệp vào việc hưởng thụ các quyền của người dân. Đây được coi là hành động thụ động (negative action) trong bảo đảm thực thi nhân quyền.
Trong khi đó, trong những hoàn cảnh khác, để bảo đảm thực thi những quyền nhất định đòi hỏi các nhà nước phải chủ động thực hiện các biện pháp để hỗ trợ người dân, chứ không chỉ đơn thuần là tôn trọng và kiềm chế không can thiệp vào việc hưởng thụ các quyền của họ. Đây được coi là hành động chủ động (positive action) trong bảo đảm thực thi nhân quyền.
Liên quan đến vấn đề trên, trước đây có nhận thức cho rằng việc bảo đảm nhóm quyền dân sự, chính trị chỉ đòi hỏi hành động thụ động của các nhà nước; còn với nhóm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa mới cần các nhà nước có những hành động chủ động. Tuy nhiên, nhận thức hiện nay cho rằng việc bảo đảm thực thi cả hai nhóm quyền này đều đòi hỏi những hành động chủ động và thụ động của các nhà nước. Ví dụ, để chấm dứt việc tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo với những người bị giam giữ (một quyền dân sự cơ bản), một quốc gia không thể chỉ thụ động trong hành động, mà phải chủ động đề ra các kế hoạch và thực thi các biện pháp như sửa đổi các quy định pháp luật có liên quan, tuyên truyền, giáo dục, tập huấn cho cán bộ thực thi pháp luật... Vì vậy, không nên xác định một nhóm quyền nào đòi hỏi hành động hoàn toàn thụ động và nhóm kia đòi hỏi hành động hoàn toàn chủ động. Có như vậy mới có thể đảm bảo việc thực thi một cách toàn diện, kịp thời và hiệu quả tất cả các quyền con người trên thực tế.
3. Yêu cầu thực hiện các quyền dân sự, chính trị và các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa có gì khác nhau?
Nhận thức phổ biến của cộng đồng quốc tế cho rằng việc hiện thực hóa các quyền dân sự, chính trị là mang tính tức thời (immediate). Bởi vì trong thực tế việc bảo đảm các quyền này không đòi hỏi phải tiêu tốn nhiều nguồn lực vật chất, do đó bất cứ quốc gia nào, giàu hay nghèo, đều có thể tiến hành được ngay.
Trong khi đó, việc hiện thực hóa các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa có thể dần dần, từng bước (progressive realization) tưong ứng với nguồn lực sẵn có của quốc gia. Điều này là bởi trong thực tế việc thực thi các quyền trong nhóm này đòi hỏi phải tiêu tốn rất nhiều nhân lực, vật lực vượt quá khả năng hiện tại của những quốc gia nghèo.
Tuy nhiên, cần chú ý là việc hiện thực hóa dần dần, từng bước các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa không có nghĩa là các quốc gia không cần xúc tiến bất cứ kế hoạch hay hành động nào, hoặc không cần đề ra bất cứ mục tiêu, chỉ tiêu hay thời hạn nào cho việc này. Nó đơn thuần chỉ là cho phép các quốc gia thực hiện các quyền này ở mức độ tương ứng với nguồn lực thực tế của nước mình. Để bảo đảm rằng các quốc gia sẽ chủ động, tích cực và nỗ lực hết mức trong phạm vi các nguồn lực của nước mình nhằm thực thi nhóm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, Liên Hợp Quốc đã đề xướng các khái niệm về nghĩa vụ tổ chức (obligation of conduct) và nghĩa vụ đạt được kết quả (obligation of result).
4. Phải chăng các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa không phải là các quyền thực chất?
Có quan điểm cho rằng, chỉ các quyền dân sự chính trị mới là các quyền thực chất, vì nội hàm của các quyền này rõ ràng nên có thể phân định đúng sai (justiciable), hay nói cách khác là có thể mang ra phân xử ở các tòa án. Trong khi đó, các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa không phải là những quyền thực chất vì chúng có nội hàm không rõ ràng nên không thể phân định đúng sai (non-justiciable), hay nói cách khác, các tòa án không thể phân xử những cáo buộc vi phạm quyền này.
Tuy nhiên, quan điểm trên là không phù hợp.Về vấn đề này, ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (cơ quan giám sát ICESCR) đã đưa ra khái niệm về "những nghĩa vụ cơ bản tối thiểu” (minimum core obligations) làm tiêu chí đánh giá việc thực thi nghĩa vụ của các quốc gia thành viên ICESCR. Khái niệm "những nghĩa vụ cơ bản tối thiểu" sau đó được cụ thể hóa trong văn kiện có tên là The Limburg Principles (Các nguyên tắc Limburg - được thông qua tại một hội nghị tổ chức ở Đại học tổng hợp Limburg, Maastricht, Hà Lan). Theo văn kiện này, các quốc gia sẽ bị coi là vi phạm nghĩa vụ thực hiện ICESCR trong những trường họp sau:
+ Không thực hiện những biện pháp được quy định để bảo đảm hiện thực hóa các quyền được ghi nhận trong Công ước;
+ Không nhanh chóng xóa bỏ những trở ngại với việc bảo đảm các quyền mà theo Công ước cần phải xóa bỏ ngay;
+ Không tổ chức thực hiện ngay các quyền mà Công ước yêu cầu phải thực hiện ngay;
+ Không bảo đảm các tiêu chuẩn tối thiểu đã được cộng đồng quốc tế chấp thuận trong điều kiện có thể bảo đảm được;
+ Đưa ra hạn chế với một quyền mà không phù hợp với quy định của Công ước;
+ Trì hoãn hoặc đình chỉ việc bảo đảm một quyền, trừ khi việc đó phù hợp với những giới hạn cho phép trong Công ước hoặc thực sự do thiếu nguồn lực;
+ Không nộp báo cáo quốc gia về việc thực hiện Công ước lên ủy ban giám sát.
Cụ thể, theo ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, những vi phạm sau hoàn toàn có thể được xét xử bởi tòa án:
+ Sự phân biệt đối xử trong việc hưởng thụ các quyền (Điều 3 ICESCR);
+ Vi phạm những nguyên tắc về trả công thích đáng và bình đẳng, đặc biệt là nguyên tắc trả công như nhau cho các công việc như nhau mà có thể do nam giới và phụ nữ thực hiện (Điều 7);
+ Quyền được thành lập các nghiệp đoàn và quyền được đình công (Điều 8);
+ Việc bảo vệ trẻ em khỏi bị bóc lột về kinh tế và xã hội (Điều 10);
+ Việc thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học miễn phí và bắt buộc (Điều 13 khoản 2);
+ Quyền của các bậc cha mẹ được chọn trường cho con cái họ và được giáo dục đạo đức và tôn giáo cho con cái tùy theo niềm tin của họ (Điều 13 khoản 3);
+ Quyền được thành lập và quản lý các cơ sở giáo dục (Điều 13 khoản 4);
+ Tự do nghiên cứu khoa học và hoạt động sáng tạo (Điều 15).
5. Có khi nào một quốc gia có thể tạm đình chỉ thực hiện các quyền con người hay không?
Về nguyên tắc, các nghĩa vụ quốc gia trong việc thực hiện quyền con người mang tính liên tục; tuy nhiên, theo quy định tại Điều 4 ICCPR, trong những bối cảnh khẩn cấp đe dọa sự sống còn của đất nước (state of emergency), các quốc gia có thể tạm đình chỉ việc thực hiện một số quyền trong Công ước này (derogation of rights) trong một thời gian nhất định.
Việc tạm đình chi như trên được thể hiện qua những biện pháp mà thường được các quốc gia áp dụng trong bối cảnh khẩn cấp, bao gồm: thiết quân luật (trên cả nước, ở một khu vực hay một địa phưong); cấm biểu tình, hội họp đông người; cấm hoặc hạn chế hoạt động của một số cơ quan thông tin đại chúng như truyền hình, phát thanh, báo chí...; cấm ra, vào một khu vực hoặc xuất, nhập cảnh (với một số cá nhân hay nhóm)...
6. Luật quốc tế đặt ra yêu cầu gì với các quốc gia trong việc tạm đình chỉ thực hiện quyền con người?
Mặc dù cho phép các quốc gia tạm đình chỉ (hạn chế thực hiện) một số quyền con người trong hoàn cảnh khẩn cấp, Điều 4ICCPR đồng thời đòi hỏi:
Thứ nhất, việc tạm đình chỉ như vậy phải thực sự xuất phát từ tình huống khẩn cấp, do tình hình bắt buộc phải làm để cứu vãn sự sống còn của quốc gia.
Thứ hai, các biện pháp áp dụng không được trái với những nghĩa vụ khác xuất phát từ luật pháp quốc tế, và đặc biệt là không được mang tính chất phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, tôn giáo, giới tính, ngôn ngữ hoặc nguồn gốc xã hội.
Thứ ba, kể cả trong tình huống khẩn cấp, các quốc gia cũng không được tạm đình chỉ việc thực hiện những quyền bao gồm: quyền sống (Điều 6), quyền không bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục (Điều 7), quyền không bị bắt giữ làm nô lệ hay nô dịch (Điều 8), quyền không bị bỏ tù chỉ vì lý do không hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng (Điêu 11), quyền không bị áp dụng hồi tố trong tố tụng hình sự (Điều 15), quyền được công nhận là thể nhân trước pháp luật (Điều 16), quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo (Điều 18). Những quyền này được gọi là những quyền không thể bị đình chỉ (không thể bị hạn chể) (non-derogatable rights).
Thứ tư, khi quyết định tạm đình chỉ thực hiện quyền, phải thông'báo ngay cho các quốc gia thành viên khác của ICCPR thông qua Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc, trong đó nêu rõ những biện pháp cụ thể đã áp dụng và thời gian dự định sẽ chấm dứt các biện pháp đó.
7. Luật quốc tế đặt ra những tiêu chí nào để đánh giá tính phù hợp của việc tạm đình chỉ thực hiện quyền?
Liên quan đến vấn đề trên, ủy ban nhân quyền Liên Hợp Quốc trước đây đã xác định những nguyên tắc định hướng cho các quốc gia trong việc tạm đình chỉ thực hiện quyền mà sau đó được tập hợp trong "Các nguyên tắc Siracusa về các điều khoản giới hạn và tạm đình chỉ thực hiện quyền trong ICCPR". Có thể tóm tắt những điểm chính của văn kiện này như sau:
Thứ nhất, việc tạm đình chỉ quyền chỉ được coi là phương thức cuối cùng, mang tính tạm thời, chỉ trong thời gian quốc gia bị đe dọa.
Thứ hai, việc tạm đình chỉ quyền không được làm ảnh hưởng đến thực hiện các quyền khác, đặc biệt là các quyền không thể bị đình chỉ áp dụng trong mọi trường hợp.
Thứ ba, chỉ áp dụng biện pháp tạm đình chỉ quyền khi có mối đe dọa cấp thiết và thực sự với quốc gia. Mối đe dọa đó phải tác động đến toàn bộ quốc gia và thực sự ảnh hưởng đêh đời sống bình thường của dân chúng mà việc áp dụng các biện pháp khắc phục bình thường không mang lại kết quả.
Thứ tư, khi quyết định tạm đình chỉ thực hiện quyền, phải thông báo ngay cho các quốc gia thành viên khác của ICCPR thông qua Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc, trong đó nêu rõ những biện pháp cụ thể đã áp dụng và thời gian dự định sẽ chẩm dứt các biện pháp đó.
Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900 6162 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Luật Minh Khuê - Sưu tầm & biên tập