1. Khái niệm người làm chứng trong vụ án hình sự

Hiện nay, theo quy định tại Điều 66 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, người làm chứng được hiểu là những người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm hoặc về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đến triệu tập làm chứng. Người làm chứng có vai trò rất quan trọng trong quy trình tố tụng, những thông tin mà người làm chứng cung cấp trong nhiều trường hợp sẽ là nguồn chứng cứ quan trọng trong việc định tội danh cũng như là căn cứ để xác định khung hình phạt của tội phạm, do đó, yêu cầu  những thông tin mà người làm chứng cung cấp phải là những thông tin khách quan, đúng như các tình tiết của sự việc.

Trong rất nhiều vụ việc, thông tin người làm chứng cung cấp có thể sẽ là một nguồn chứng cứ quan trọng, thậm chí đôi khi việc chứng minh được tội phạm hay không của cơ quan điều tra có thẩm quyền phụ thuộc rất nhiều vào lời khai của người làm chứng. Chính vì vậy, có thể khẳng định những thông tin cung cấp của người làm chứng là vô cùng quan trọng trong việc xác minh tội phạm.

Trong một số trường hợp nhất định, do một số lý do, người chứng kiến hoặc biết được các tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án có thể sẽ không hợp tác với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà cung cấp những thông tin không đúng với những gì mà mình biết, thấy nhằm che dấu tội phạm hay vì mục đích lợi ích nào đó hoặc có thể bị đe dọa, làm ảnh hưởng đến hướng điều tra và gây ra nhiều khó khăn trong quá trình chứng minh tội phạm. Chính vì thế, để đảm bảo tính khách quan của các thông tin cung cấp, hiện nay Bộ luật tố tụng hình sự quy định không phải bất kỳ ai nếu biết được tình tiết liên quan đến nguồn tin tội phạm, về vụ án đều có thể trở thành người làm chứng.

2.  Quy định về những người không được làm chứng

Trên thực tế, không phải ai nếu biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm hay biết được những tình tiết, sự kiện sảy ra trong một vụ án đều có thể là người làm chứng. Hiện nay, tại khoản 2 Điều 66 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015 đã quy định rõ những người không được làm chứng, cụ thể:

Thứ nhất: người bào chữa của người bị buộc tội

Người bào chữa của người bị buộc tội là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chưa (theoq uy định tại khoản 1 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Một trong những nghĩa vụ của người bào chữa là giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Quy định của pháp luật về trường hợp người bào chữa không được phép làm chứng là hoàn toàn hợp lý. Bởi nói một ngắn gọn nhất, người làm chứng là người đứng ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Do đó, để đảm bảo tính khách quan, người bào chữa không được phép đồng thời là người làm chứng.

Thứ hai: người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn

Như đã phân tích ở trên, các thông tin mà người làm chứng cung cấp là một nguồn chứng cứ quan trọng trong việc chứng minh tội phạm, vì vậy mà mọi thông tin cung cấp phải được đảm bảo tính khách quan, đúng sự thật. Do đó, đối với những người do nhược điểm về tinh thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn sẽ không thể là người làm chứng. Nguyên nhân là với những người do nhược điểm về tinh thần, không thể đảm bảo những thông tin họ cung cấp là đúng với những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án bởi, chính bản thân họ cũng không thể hiểu rõ những tình tiết mà họ biết cũng như mức độ quan trọng, nguy hiểm của những tình tiết mà họ nhìn thấy, biết được.

Đối với những người hạn chế về thể chất, sự hạn chế này trong một số trường hợp khiến họ không nhận biết rõ được những tình tiết của vụ việc từ đó có thể dẫn đến việc cung cấp các thông tin mang tính chủ quan, điều này sẽ không đảm bảo được tính khách quan trong việc cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền để cơ quan có thẩm quyền có thể tiến hành công việc của mình. Tuy nhiên, cần phải làm rõ, không phải người nào có hạn chế về thể chất đều không được làm người làm chứng, người bị hạn chế về thể chất chỉ không được làm người làm chứng khi những hạn chế này khiến họ không có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án. 

3. Người bị loạn thị có được làm người làm chứng không?

Loạn thị là một tật khúc xạ khá phổ biến thường xảy ra khi mắc các bệnh về mắt hoặc chấn thương mắt. Hệ quả của loạn thị là mắt nhìn mờ, méo mó; gặp khó khăn khi nhìn các đối tượng ở gần hoặc ở xa; tầm nhìn dao động; hay mỏi mắt hoặc nheo mắt. Như vậy, khi bị loạn thị sẽ khiến cho thị lực của mắt bị giảm khó khăn trong việc quan sat.

Theo quy định của pháp luật, các đối tượng không được làm chứng là (i) người bào chữa của người bị phạm tội; (ii) người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn.

Như vậy, để xác định người bị loạn thị có được làm chứng không cần xác định, người bị cân thị có thuộc các đối tượng không được làm chứng hay không.

Đối chiếu với quy định của luật, không thể khẳng định người bị cận thị có được làm chứng hay không mà còn phải dựa vào những tình huống cụ thể. Bởi luật quy định rõ, một trong những người không được làm chứng là người do nhược điểm về thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan đến nguồn về tin tội phạm. Nghĩa là, hiểu một cách đơn giản, việc họ không nhận thức được một số tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, vụ án là do nhược điểm về thể chất của họ. Trong một số trường hợp, mặc dù có nhược điểm về thể chất, nhưng nhược điểm đó không ảnh hưởng đến việc nhận thức được một số tình tiết của vụ việc, học hoàn toàn có thể là người làm chứng. Chẳng hạn, đối với những người cận thị, việc họ bị cận thị là một nhược điểm thể chất, nhưng nhược điểm này chỉ khiến họ gặp khó khăn trong việc quan sát, ngoài ra đối với các vấn đề khác, họ hoàn toàn có thể cảm nhận giống như bất kỳ ai khác.

Ví dụ:

D bị đánh tại nhà của mình, A bị loạn thị và có khả năng nhận thức, sống ở cạnh nhà D, A nghe được có tiếng của B, C lúc sảy ra vụ việc tại nhà của D trong quá trình tội phạm diễn ra, thì trường hợp này A vẫn có thể là người làm chứng. Bởi việc A bị loạn thị hoàn toàn không ảnh hưởng đến việc cảm nhận âm thanh của A. Do đó, việc A xác định rằng có tiếng của B, C tại thời điểm đó có thể trở thành một nguồn chứng cứ. Do đó, không thể xác định A là người có nhược điểm về thể chất để cho rằng A không thể là người làm chứng trong trường hợp này.

B đánh C vào buổi tối, nơi thực hiện hành vi là một đoạn đường ánh sáng của đèn đường rất yếu, A đứng đó một đoạn, A, có khả năng nhận thức, A bị loạn thị và không dùng vất kỳ loại kính mắt nào để hỗ trợ việc quan sát. Trong trường hợp này, việc A bị loạn thị có thể được xác định là nhược điểm về thể chất, và A có thể sẽ không là người làm chứng vì nhược điểm này của A khiến cho A gặp nhiều khó khăn trong việc nhận thức được những tình tiết liên quan của nguồn tin về tội phạm, vụ án như việc A có thật sự nhìn đúng người đánh C là B hay không hay B đã cố tình đánh C vào những vùng nào, vùng đó có phải là trọng yếu hay không?.

Như vậy, việc một người bị loạn thị có được làm chứng hay không, còn phụ thuộc vào việc việc loạn thị của họ có ảnh hưởng dến việc nhận thức các tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án hay không. Trong trường hợp, nhược điểm đó có ảnh hưởng đến việc nhận thức những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án, thì người đó sẽ không thể làm chứng. Trong trường hợp ngược lại, nhược điểm của người đó nếu không ảnh hưởng đến việc nhận thức các tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án thì không thể trở thành người làm chứng. Bởi điều đó không thể đảm bảo được việc cung cấp đúng các tình tiết, thông tin, khách quan của vụ việc, do đó không đảm bảo được xác định đúng người đúng tội.

Về các vấn đề liên quan đến người làm chứng trong tố tụng hình sự, các bạn có thể tham khảo bài viết: Người làm chứng là gì? Người làm chứng trong tố tụng hình sự, dân sự

Trên dây là một số vấn đề xung quanh câu hỏi "người bị loạn thị có được làm chứng hay không". Nếu có vấn đề gì thắc mắc, xin liên hệ qua đầu số tổng đài 19006162 hoặc liên hệ qua địa chỉ lienhe@luatminhkhue.vn, để được Luật Minh Khuê giải đáp chi tiết.