1. Quy định chung về bảo vệ công lý.

Có thể nói, công lý và bảo vệ công lý từ rất sớm đã trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng trong đường lối lãnh đạo của Đảng, khẳng định tính ưu việt của chế độ ta.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII  khẳng định vai trò hàng đầu, xuyên suốt của nhiệm vụ này "Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân". Việc tiếp tục đặt ra các chỉ tiêu công lý trong thời gian tới là hết sức cần thiết, tạo ra những thách thức, áp lực tự hoàn thiện, vươn lên cho hoạt động tư pháp. Cùng với đó, để đáp ứng tốt hơn những yêu cầu cấp bách của thực tiễn công tác tư pháp, các chỉ tiêu công lý hiện hành cần tiếp tục được tổng kết, nghiên cứu thấu đáo, khoa học và toàn diện hơn.

Bản chất của nền tư pháp luôn luôn là vấn đề công lý. Trong lịch sử tư pháp Việt Nam, trọng tâm của các cuộc cải cách tư pháp năm 1950, năm 1960 đều khởi đầu bằng việc định hình lại các giá trị công lý trong một giai đoạn phát triển của đất nước, trên cơ sở đó thiết lập nên các thiết chế, công cụ pháp lý phù hợp để triển khai các giá trị đó.

Điển hình là sự hình thành nhận thức công lý nhân dân là "bảo vệ quyền lợi của nhân dân thông qua việc loại bỏ mọi hình thức bóc lột" năm 1950 đã dẫn đến sự ra đời của thiết chế Tòa án nhân dân và Hội thẩm nhân dân cho đến ngày nay. Do đó, về lý luận và lâu dài, Chiến lược cải cách tư pháp giai đoạn tới cần phải tiếp tục làm rõ, cụ thể và thống nhất khái niệm, nội hàm, hình thức biểu hiện và các tiêu chí đánh giá làm căn cứ xác định cụ thể các công cụ đo lường công lý trong hoạt động tư pháp trong giai đoạn hiện nay.

Từ góc độ yêu cầu thực tiễn, các chỉ tiêu công lý được giao cần tiếp tục hoàn thiện ở một số khía cạnh. Trước hết, cần chú trọng hơn các chỉ tiêu về công lý thủ tục, những tiêu chuẩn tối thiểu cho một quyết định công bằng, khách quan trong hoạt động tố tụng. Mặc dù công lý nội dung là chính xác, đúng người đúng tội nhưng những thiếu sót của các thủ tục tố tụng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến cảm nhận và niềm tin công lý của người dân. Do đó, các chỉ tiêu về "Nghiêm cấm bức cung, dùng nhục hình", hay về "nâng cấp trang thiết bị cho hoạt động điều tra, khám nghiệm hiện trường, giám định tư pháp, nhất là các thiết bị ghi âm, ghi hình có âm thanh phục vụ công tác điều tra"... cần được thể hiện một cách hệ thống với một vị thế tương xứng hơn.

Ở một khía cạnh khác, công lý còn là yêu cầu sự công bằng, bình đẳng trong tiếp cận các quyền tố tụng. Việc xác định các chỉ tiêu công lý hiện nay còn quá tập trung vào những chỉ tiêu về số lượng, tỷ lệ. Điều này, dễ dẫn đến nguy cơ là cơ quan tư pháp chỉ tập trung, ưu tiên nguồn lực hoàn thành các vụ việc có giá trị lớn để bảo đảm hoàn thành chỉ tiêu, nhiệm vụ của năm công tác.

Trong một nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, các chỉ tiêu công lý cũng cần nghiêm túc tham khảo các chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là Báo cáo của Ngân hàng Thế giới về mức tín nhiệm các nền kinh tế thế giới, Báo cáo chỉ số tiếp cận công lý và Báo cáo chỉ số pháp quyền của Dự án công lý thế giới.

Các tiêu chí phổ quát bao gồm: Khả năng tìm ra sự thật và tính chính xác của quyết định của tòa án; Thời gian tiếp cận công lý bảo đảm và Chi phí tài chính tiếp cận công lý hợp lý. Như vậy, các chỉ tiêu công lý hiện nay còn chưa thể hiện đầy đủ các chỉ tiêu về thời gian và chi phí, những tiêu chí đặc biệt quan trọng trong các lĩnh vực phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế như dân sự, hành chính, đầu tư, kinh doanh, thương mại và bảo vệ người tiêu dùng.

Tiếp nối tinh thần đổi mới, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X và Nghị quyết số 08-NQ/TW, Nghị quyết số 49-NQ/TW và các Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng của các khóa sau đó, Hiến pháp năm 2013 được ban hành, đã mở ra một trang sử pháp lý mới. Đó là lần đầu tiên, Hiến pháp ghi nhận Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”; “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyên công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” (Điều 102).

2. Những nội dung cơ bản của công lý đã thể hiện tập trung ở Hiến pháp năm 2013

Tại lời nói đầu của Hiến pháp, tinh thần “tôn trọng quy luật khách quan, vận dụng đúng đắn, hành động theo quy luật” được tiếp tục khẳng định trong việc xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp:

“Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, Nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, đấu tranh anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường bất khuất và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam... Bằng ý chí và sức mạnh của toàn dân tộc, được sự giúp đỡ của bạn bè trên thế giới, Nhân dân ta đã giành chiến thắng vĩ đại trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội”. “Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kế thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này...”;

Những giá trị phổ quát của quyền con người, quyền công dân được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyên công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 14). “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” (Điều 16). “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm” (Điều 20)... Các quy định về quyền con người, quyền công dân nói chung và quyền con người, quyền công dân trong hoạt động xét xử nói riêng được Hiến pháp mở rộng và làm sâu sắc. Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền được xét xử kịp thời, công khai, công bằng, không bị kết án hai lần cho cùng một tội phạm, quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa, trách nhiệm bồi thường nhà nước trong tố tụng... Đặc biệt, nguyên tắc suy đoán vô tội được diễn giải một cách cụ thể, “người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”; Các giá trị văn hóa được tôn trọng trong “nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại” (Điều 60). Các giá trị hiện đại được tuyên ngôn, định hướng chung cho toàn thể cộng đồng xã hội Việt Nam, đó là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” (Điều 3), cùng với các giá trị khác là “phát triển bền vững” (Điều 51), “sống trong môi trường trong lành” (Điều 43), hay “tiến bộ và công bằng xã hội” (Điều 50)...; Hiến pháp được xác định là “luật cơ bản”, “có hiệu lực pháp lý cao nhất”, “mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp”, “mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý”, “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp” (Điều 119). Qua đó đã tiếp tục khẳng định Hiến pháp là nền tảng của hệ thống pháp luật, hình thành nên một trật tự hiến pháp thống nhất, chặt chẽ;

Hiến pháp đã giao cho Tòa án nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý (Điều 102), và cùng với nó là các quy định để bảo đảm cho Tòa án nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ của mình qua các nguyên tắc tố tụng, nguyên tắc hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân (Điều 103)...

Qua đó cho thấy, những nội dung cơ bản của công lý đã được hiến định, là cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực hiện công lý nói chung cũng như cho việc bảo vệ công lý của Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp nói riêng.

3. Nội dung bảo đảm cho Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp bảo vệ công lý

Cụ thể hóa Hiến pháp, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, các luật tố tụng tư pháp (Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Luật tố tụng hành chính năm 2015) và các văn bản pháp luật khác (Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Bộ luật dân sự năm 2015, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015...) đã được ban hành. Nội dung bảo đảm cho Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp bảo vệ công lý là nội dung cơ bản trong việc quy định bảo vệ công lý 

3.1. Về chức năng

Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thực hiện quyền tư pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là một trong những chức năng rất quan trọng của Nhà nước Việt Nam và được giao cho Toà án nhân dân. Do vậy, Toà án nhân dân có vị trí rất quan trọng trong bộ máy nhà nước. Toà án có vị trí trung tâm trong các cơ quan tư pháp. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020” đã khẳng định: “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”.  Tòa án nhân dân được xác định là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, bên cạnh quyền lập pháp, quyền lập hiến do Quốc hội thực hiện, quyền hành pháp do Chính phủ thực hiện; được hoạt động theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

3.2. Về nhiệm vụ

 Tòa án nhân dân được xác định là cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.

Tại khoản 2 điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân quy định "Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân." Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.

3. Khi thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, Tòa án có quyền:

a) Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Luật sư trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án;

b) Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do Luật sư, bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cung cấp;

c) Khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc Tòa án kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự;

d) Yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác trình bày về các vấn đề có liên quan đến vụ án tại phiên tòa; khởi tố vụ án hình sự nếu phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm;

e) Ra quyết định để thực hiện các quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

3.3. Về quyền hạn

Về quyền hạn: Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân. Quyền hạn của Tòa án nhân dân tối cao là giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của các Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng.

3.4. Về tổ chức

Từ sau khi Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014 có hiệu lực, cơ cấu tổ chức hệ thống Tòa án Việt Nam đã có nhiều thay đổi cũng như về quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp Tòa án theo đó ệ thống Tòa án nhân dân gồm có: Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; Tòa án quân sự. Các Tòa án nhân dân được tổ chức độc lập theo thẩm quyền xét xử. Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất. Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác, trừ trường hợp do luật định. Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử. Cơ chế thông qua của HĐTP: xuất phát từ nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số của Tòa án nhân dân, phiên họp của HĐTP phải có ít nhất 2/3 tổng số thành viên tham gia; quyết định của HĐTP phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành. Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của HDDTP là quyết định cao nhất, không bị kháng nghị.

3.5. Về đội ngũ cán bộ

Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm. Thẩm phán gồm các ngạch: Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp. Việc bổ nhiệm Thẩm phán được thực hiện sau khi trúng tuyển kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán theo ngạch Thẩm phán; bổ nhiệm ngạch Thẩm phán cấp trên được tuyển chọn chủ yếu từ ngạch cấp dưới trực tiếp. Riêng bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì không phải trải qua kỳ thi tuyển chọn nhưng phải được sự phê chuẩn của Quốc hội trước khi Chủ tịch nước bổ nhiệm do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đệ trình. Nhiệm kỳ đầu của Thẩm phán là 5 năm, trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm...

Đối với Hội thẩm, gồm Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm quân nhân. Các Hội thẩm được thực hiện theo chế độ bầu hoặc cử. Hội thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, có nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân. Hội thẩm quân nhân do Chủ nhiệm chính trị quân đội cử theo sự giới thiệu của cơ quan chính trị trong quân đội cùng cấp, có nhiệm kỳ 5 năm.

Ngoài ra, còn có các đội ngũ giúp việc như Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên...

Luật Minh Khuê biên tập và sưu tầm.