1. Khái niệm quản lý theo lãnh thổ

Quản lý theo lãnh thổ là quản lý nhà nước theo địa giới hành chính (lãnh thổ) bao gồm tất cả các tổ chức kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc gia, quốc phòng và tất cả các cư dân sống trên lãnh thổ, thường được dùng song song và phân biệt với quản lý theo ngành. Nếu quản lý theo ngành là việc một cơ quan, cá nhân có thẩm quyển thực hiện quản lý nhà nước theo một mảng, một lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc, không phân biệt địa giới hành chính thì ngược lại, quản lý nhà nước theo lãnh thổ là cơ quan, cá nhân có thẩm quyền thực hiện quản lý nhà nước theo một địa bàn của cấp hành chính nhất định (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã) trong tổng thể tất cả các ngành, lĩnh vực trên địa bàn đó.

 

2. Quản lý theo địa phương

Quản lý theo địa phương là quản lý trên phạm vi lãnh thổ nhất định theo sự phân vạch địa giới hành chính của Nhà nước, do các cơ quan quản lý hành chính nhà nước ở địa phương thực hiện, cụ thể là do UBND tỉnh, huyện, xã và các cấp tương đương tiến hành.

 

3. Sự cần thiết phải thực hiện quản lý kinh tế theo lãnh thổ?

Các đơn vị kinh tế phân bổ trên cùng một địa bàn lãnh thổ (có thể cùng một ngành hoặc không cùng ngành) có nhiều mối quan hệ. Có thể kể đến các mối quan hệ chủ yếu sau:

– Mối quan hệ về việc cung cấp và tiêu thụ sản phẩm của nhau.

– Sự hợp tác và liên kết với nhau trong việc khai thác và sử dụng các nguồn lực sẵn có trên địa bàn lãnh thổ. Cụ thể:

+ Trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, lâm sản, hải sản,…)

+ Khai thác và sử dụng điều kiện tự nhiên ( như đất đai, thời tiết, sông hồ, bờ biển, thềm lục địa…)

+ Sử dụng nguồn nhân lực và ngành

+ Xử lý chất thải, bảo vệ môi trường sinh thái

+ Sử dụng kết cấu hạ tầng kỹ thuật (giao thông, cung ứng điện nước, bưu chính viễn thông…)

Chính vì giữa các đơn vị kinh tế trên địa bàn lãnh thổ có nhiều mối quan hệ như trên nên đòi hỏi phải có sự tổ chức, điều hòa và phối hợp hoạt động của chúng để đảm bảo một cơ cấu kinh tế lãnh thổ hợp lý và hoạt động kinh tế có hiệu quả trên địa bàn lãnh thổ.

 

4. Chủ thể của quản lý theo lãnh thổ

Chủ thể của quản lý theo lãnh thổ là cơ quan, cá nhân thuộc bộ máy nhà nước được thành lập, giao thẩm quyền quản lý nhà nước trên một địa bàn lãnh thổ nhất định (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã). Nội dung quản lý theo lãnh thổ là các quyết định quản lý tổng hợp các ngành, lĩnh vực trên địa bàn theo cơ cấu cân đối ngang. Đối tượng quản lý theo lãnh là các cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn hành chính lãnh thổ. Quản lý theo lãnh thổ cần phải được thực hiện mối quan hệ, có sự kết hợp với quản lý theo ngành.

 

5. Quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo địa phương

Quản lý theo ngành luôn được kết hợp chặt chẽ với quản lý theo địa phương. Đó chính là sự phối hợp giữa quản lý theo chiều dọc của các bộ với quản lý theo chiều ngang của chính quyền địa phương, theo sự phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý giữa các ngành, các cấp. Sự kết hợp này đã trở thành nguyên tắc cơ bản của quản lý hành chính nhà nước. Sự kết hợp này là cần thiết vì nó đem lại những lợi ích:

+ Giúp khai thác một cách triệt để những tiềm năng, thế mạnh của địa phương trong việc phát triển ngành đó ở địa bàn lãnh thổ của địa phương.

+ Giúp nắm bắt được những đặc thù ở mỗi một địa bàn lãnh thổ nhất định ( do có sự khác nhau về các yếu tố tự nhiên, văn hóa- xã hội), trên cơ sở đó đảm bảo được sự phát triển của các ngành ở địa phương.

+ Khi giải quyết vấn đề phát triển ngành bao giờ cũng phải tính đến lợi ích của các địa phương và ngược lại. Cần thiết phải có sự phối hợp chặt chẽ trong tổ chức và hoạt động của cơ quan quản lý ngành ở trung ương với chính quyền địa phương trong việc thực hiện các nhiệm vụ của quản lý hành chính nhà nước. Sự phối hợp đó được biểu hiện cụ thể ở trong hoạt động quy hoạch và kế hoạch, trong xây dựng và chỉ đạo bộ máy chuyên môn, trong ban hành và kiểm tra việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật.

Ví dụ: Tỉnh Sơn La có một số đặc điểm như sau:

+ Địa hình: Tương đối bằng phẳng với 2 cao nguyên Mộc Châu và Sơn La có nhiều đồng cỏ rộng lớn => Chăn nuôi đại gia súc; địa hình có nhiều đồi núi; nằm trên lưu vực 2 con sông lớn – Sông Mã, sông Đà. => Phát triển thuỷ điện.

+ Khí hậu: Khí hậu cận nhiệt đới ẩm vùng núi, mùa đông phi nhiệt đới lạnh khô, mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều. => Chú trọng sản xuất nông, lâm nghiệp với đa dạng giống cây trồng.

+ Dân cư: Mật độ dân số phân bố không đồng đều, chỉ có 13.8% dân số đô thị, còn lại là dân số nông thôn, nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống; Sơn La chiếm tới 34% tổng số hộ nghèo của cả nước; dân trí còn chưa cao. => Cần chú trọng đến việc nâng cao dân trí, phổ biến chính sách, pháp luật tới người dân để việc thực hiện pháp luật diễn ra đồng bộ, nhất quán.

+ Trong lĩnh vực nông nghiệp-nông thôn ở Sơn La, việc quản lý theo ngành thể hiện ở việc Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn chỉ đạo Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn tỉnh Sơn La thực hiện những chủ trương, chính sách về nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà Nước. Bên cạnh đó, UBND tỉnh Sơn La có nhiệm vụ điều hành, chỉ đạo, giám sát chung về công tác nông nghiệp – nông thôn ở địa phương mình nhằm mục tiêu đưa nông nghiệp của địa phương phát triển hơn nữa trong những giai đoạn tiếp theo.

Luật Minh khuê (tổng hợp & phân tích)