Mục lục bài viết
- 1. Khái quát về công ước viên năm 1980 về hợp đồng thương mại quốc tế
- 2. Một số quy định đặc trưng của công ước viên 1980 về hợp đồng thương mại quốc tế
- 3. Ưu, nhược điểm của công ước viên 1980 về hợp đồng thương mại quốc tế
- 4. Một số thuật ngữ về thương mại quốc tế
- 4.1 Điều kiện thương mại quốc tế (Incoterms) là gì?
- 4.2 Lý thuyết về thương mại quốc tế (theory of international trade) là gì?
1. Khái quát về công ước viên năm 1980 về hợp đồng thương mại quốc tế
Công ước viên năm 1980 về hợp đồng thương mại quốc tế (CISG) được coi là một trong những thành tựu đáng kể trong việc thúc đẩy luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) và thông qua tại Viên năm 1980, CISG được xây dựng trên cơ sở nỗ lực để tạo ra một luật thống nhất về mua bán hàng hóa quốc tế
CISG được xem là sự tiếp nối của hai công ước trước đó là công ước liên quan đến luật thống nhất về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (Uniform Law on the Formation of Contracts for the International Sales - ULF) và công ước liên quan đến luật thống nhất về mua bán hàng hóa quốc tế (Uniform Law on the International Sales of Goods - ULIS) được thông qua ở La Hay năm 1964. Tuy nhiên, sự thành công của CISG khác xa so với hai công ước trước đó, khi mà ULF và ULIS chưa được sử dụng rộng rãi
Ngày nay, CISG đã được chấp nhận trên phạm vi toàn cầu và được xem là công ước thành công nhất trong việc thúc đẩy thương mại quốc tế. Các quốc gia trên toàn thế giới đã chấp thuận CISG và đây là một trong những công ước quốc tế có ảnh hưởng lớn đến hoạt động thương mại quốc tế. CISG cung cấp một bộ quy tắc đơn giản và hiệu quả để giải quyết tranh chấp trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, và nó cong giúp đẩy mạnh sự phát triển của thương mại quốc tế và tăng cường quan hệ kinh tế giữa các quốc gia.
Kể từ khi CISG có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 1998 đến thời điểm ngày 01 tháng 8 năm 2011, UNCITRAL đã báo cáo rằng số lượng thành viên của CISG đã tăng lên 77 nước trên toàn thế giới. Đây là một con số đáng kinh ngạc, cho thấy sự phổ biến và tầm quan trọng của CISG trong việc định hình và thúc đẩy thương mại quốc tế
CISG được chia thành bốn phần để dễ dàng hiểu và áp dụng. Phần I (từ Điều 1 đến Điều 13) quy định về phạm vi áp dụng công ước và các điều khoản chung, bao gồm cả việc áp dụng CISG đối với các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Phần II (từ Điều 14 đến Điều 24) quy định về quá trình giao kết hợp đồng, bao gồm cả việc đưa ra đề xuất và chấp nhận đề xuất
Phần III của CISG (từ Điều 25 đến Điều 88) là phần quan trọng nhất và bao gồm các quy định thực chất để điều chỉnh hợp đồng mua bán. Nó đề cập đến quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng và các biện pháp khắc phục vi phạm hợp đồng. Các quy định này bao gồm việc xác định trách nhiệm của các bên đối với các vấn đề như chất lượng hàng hóa, giá cả, thanh toán và giao hàng
Phần IV của CISG (từ Điều 89 đến Điều 101) quy định việc phê chuẩn và hiệu lực của công ước, bao gồm cả quy định về bảo lưu công ước, tất cả các quy định này đều rất quan trọng và đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng một nền tảng luật pháp thống nhất cho thương mại quốc tế.
2. Một số quy định đặc trưng của công ước viên 1980 về hợp đồng thương mại quốc tế
* Về quy định bảo lưu công ước:
Việc bảo lưu công ước rất quan trọng đối với các nước phê chuẩn vì nó ảnh hưởng đến việc áp dụng CISG. Các nước có thể lựa chọn ba cách để bảo lưu việc áp dụng công ước. Cụ thể:
- Ngăn cấm việc áp dụng CISG
- Hạn chế áp dụng CISG theo quy định tại Điều 92
- Làm thay đổi nội dung của CISG
* Về xác định một hợp đồng là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
Để xác định một hợp đồng là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của CISG, Điều 1 của công ước quy định rằng tiêu chí chủ yếu là trụ sở kinh doanh của các bên trong hợp đồng. Theo đó, một hợp đồng được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nếu các bên tham gia có trụ sở kinh doanh tại các nước khác nhau, trong đó các nước này là thành viên của CISG hoặc khi quy phạm tư pháp quốc tế trích dẫn đến việc áp dụng luật của một nước thành viên của CISG. Việc xác định tính quốc tế của hợp đồng không bị ảnh hưởng bởi yếu tố quốc tịch hay tính chất thương mại hay dân sự của các bên trong hợp đồng
* Về các trường hợp áp dụng: CISG được áp dụng trong hai trường hợp cụ thể:
- Trường hợp thứ nhất, nếu hợp đồng có điều khoản chọn luật áp dụng dẫn chiếu tới CISG thì CISG sẽ được áp dụng. Trong trường hợp này các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có quyền tự do lựa chọn CISG là luật điều chỉnh cho hợp đồng mua bán của họ, miễn là cơ quan tài phán tôn trọng quyền tự do hợp đồng của các bên
- Trong trường hợp thứ hai, nếu các bên tham gia hợp đồng không thỏa thuận rõ ràng hoặc thỏa thuận ngầm về việc áp dụng luật nào cho hợp đồng thì CISG sẽ được áp dụng theo khoản 1 Điều 1. Nếu không có quy phạm tư pháp quốc tế nào được áp dụng thì CISG sẽ được áp dụng, nếu các quy phạm tư pháp quốc tế dẫn chiếu đến luật của một nước kí kết CISG thì luật áp dụng sẽ là CISG
Việc áp dụng CISG không phụ thuộc vào yếu tố quốc tịch hay tính chất thương mại hay dân sự của các bên trong hợp đồng mà phụ thuộc vào việc xác định xem hợp đồng có tính quốc tế hay không theo quy định của CISG.
* Về các trường hợp không được áp dụng: CISG không được áp dụng trong ba trường hợp sau:
- Thứ nhất, không áp dụng CISG cho một số giao dịch nhất định theo quy định tại Điều 2 bao gồm mua bán hàng tiêu dùng, hàng bán đấu giá, hoặc nhằm thực thi pháp luật hoặc quyền lực khác theo luật và mua bán chứng khoán
- Thứ hai, không áp dụng CISG cho một số giao dịch liên quan đến một số hàng hóa nhất định theo quy định tại Điều 2 và Điều 3 bao gồm tàu thủy, máy bay, điện, bất động sản và các hợp đồng trong đó phần lớn nghĩa vụ của bên cung ứng hàng hóa là cung ứng lao động hoặc thực hiện các dịch vụ khác
- Thứ ba, không áp dụng CISG cho một số vấn đề quy định tại Điều 4 và 5 bao gồm tính hiệu lực của hợp đồng, sự tác động có thể phát sinh từ hợp đồng đối với quyền sở hữu hàng hóa đối tượng của hợp đồng mua bán và trách nhiệm của người bán với thiệt hại mà hàng hóa gây ra cho bất kỳ người nào
CISG chứa các nội dung chính như tiêu chí xác định một hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, phạm vi áp dụng, giao kết hợp đồng, nghĩa vụ của các bên và biện pháp khắc phục vi phạm hợp đồng. Nó được coi là công ước kép bao gồm cả điều lệ về giao kết hợp đồng hàng hóa quốc tế và điều lệ về quy phạm thực chất
3. Ưu, nhược điểm của công ước viên 1980 về hợp đồng thương mại quốc tế
Công ước viên 1980 có một số ưu điểm cụ thể:
- Điều chỉnh pháp luật thương mại quốc tế: CISG được áp dụng cho hợp đồng mua bán quốc tế, điều chỉnh các quy định pháp luật và phương thức giải quyết tranh chấp, giúp đơn giản hóa quá trình xác định luật áp dụng và tạo điều kiện công bằng cho các bên trong hợp đồng
- Thông dịch viên: CISG cung cấp một khung pháp lý chung cho các quốc gia khác nhau, giúp giảm thiểu rủi ro của việc sử dụng nhiều ngôn ngữ trong quá trình thương mại quốc tế. Các bên trong hợp đồng có thể sử dụng thông dịch viên để đảm bảo hiểu đúng các quy định trong hợp đồng
Tuy nhiên, công ước viên 1980 cũng có một số nhược điểm cụ thể:
- Áp dụng hạn chế: CISG không được áp dụng cho tất cả các loại hợp đồng thương mại quốc tế, như đã nêu trong Điều 2, 3 và 4. Do đó, việc quyết định áp dụng CISG hay không còn phụ thuộc vào loại hợp đồng thương mại cụ thể đó
- Ngôn ngữ pháp lý phức tạp: CISG được viết bằng tiếng Anh và chính thức được phê chuẩn bởi Liên Hợp Quốc, nó được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau để sử dung trong các vụ kiện. Tuy nhiên, việc dịch thuật có thể dẫn đến sự hiểu lầm và tranh chấp về tài liệu và từ ngữ sử dụng trong CISG.
4. Một số thuật ngữ về thương mại quốc tế
4.1 Điều kiện thương mại quốc tế (Incoterms) là gì?
Điều kiện thương mại quốc tế (Incoterms) là những quy tắc quốc tế được công nhận rộng rãi trên toàn thế giới để giải thích những điều kiện thương mại phổ biến trong buôn bán ngoại thương (kể cả buôn bán trong nước ở một sô' nước) và chỉ giải thích những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa “có thể giao được” (gọi là hàng hóa hữu hình, để phân biệt với hàng hóa vô hình như phần mềm máy tính..Với mục đích giải thích rõ những tập quán thương mại, tránh hiểu nhầm dễ dẫn'đến tranh chấp, Phòng Thương mại quốc tế (ICC) đã xuất bản lần đầu tiên vào năm 1936 bộ quy tắc này gọi là “Incoterms 1936” và từ đó đến nay được sửa đổi nhiều lần cho phù hợp với thực tiễn thương mại quốc tế. Bản mới nhất (cho đến năm 2009) là “Incoterms 2000”. “Incoterms” chỉ giải thích các quy tắc chứ không điều chỉnh hậu quả do vi phạm hợp đồng cũng như không đề cập đến việc miễn trừ nghĩa vụ nào đó của các bên trong hợp đồng do gặp tình huống không thực hiện được nghĩa vụ đã cam kết; vấn đề này sẽ đưỢc giải quyết bằng những thỏa thuận khác trong hợp đồng mua bán (bao gồm cả điều khoản về luật điều chỉnh hợp đồng).
4.2 Lý thuyết về thương mại quốc tế (theory of international trade) là gì?
Lý thuyết về thương mại quốc tế (theory of international trade) là bộ phận lý thuyết kinh tế quan tâm đến các Yếu tố quyết định cũng như những mối lợi thu được từ thương mại và chuyên môn hoá quốc tế. Nó xem xét phương thức phát huy ảnh hưởng của sự khác biệt giữa các nước về chi phí cung ứng và cơ cấu nhu cầu đối với quy mô, sản phẩm và cơ cấu khu vực của thương mại quốc tế, cũng như đối với quy mô và phương thức phân phối những mối lợi do thương mại đem lại.
Trên đây là nội dung tư vấn về chủ đề công ước viên 1980 về hợp đồng thương mại quốc tế. Ngoài ra quý khách hàng có thể tham khảo thêm bài viết về chủ đề quy định pháp luật về giải phóng hàng hóa và thông quan hàng hóa của Luật Minh Khuê. Còn điều gì vướng mắc quý khách hàng vui lòng liên hệ 1900.6162 hoặc gửi email về: lienhe@luatminhkhue.vn để được hỗ trợ. Trân trọng./.