1. Khái quát

PICC UNIDROIT là tổ chức liên chính phủ, trụ sở tại Rô-ma (Ý), hoạt động như tên gọi của nó - hài hoà hoá pháp luật. Cùng với các sáng kiến khác, UNIDROIT giữ vai trò quan trọng trong việc tạo ra những cố gắng ban đầu nhằm hài hoà hoá pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Trong thời gian gần đây, PICC là một trong những thành quả nổi bật của UNIDROIT. Đề án được bắt đầu vào năm 1971. Bản dự thảo đầu tiên được soạn thảo công phu bởi ba luật sư danh tiếng trong lĩnh vực luật so sánh - Giáo sư R. Đa-vít (thuộc hệ thống civil law), Giáo sư C. Schmithoff (thuộc hệ thống common law), và Giáo sư T. Popescu (thuộc hệ thống luật xã hội chủ nghĩa). Năm 1980, một Nhóm công tác đã tiếp tục công việc một cách hiệu quả và thành thạo dưới sự chủ trì của Giáo sư J. Bonell (Ý).

Qua nhiều năm, các thành viên của Nhóm cũng thay đổi, tuy nhiên mối quan tâm hàng đầu luôn được đặt ra là cố gắng đảm bảo tính đại diện của các hệ thống luật pháp cơ bản trên toàn thế giới. Từ giai đoạn thứ hai của đề án, các quan sát viên đã được mời tham dự các cuộc họp, nhằm hướng đến lợi ích từ hoạt động phản biện của các tổ chức như Hội nghị La Hay, UNCTAD, Hiệp hội luật sư quốc tế (‘IBA’), ICC và các tổ chức trọng tài khác. PICC là sự pháp điển hoá luật hợp đồng nói chung, mà chính các quy định này (còn được gọi là ‘black letter rules’ - ‘quy định cơ bản’) sẽ được bình luận và minh họa. Điểm cơ bản là Bộ nguyên tắc này không phải là dự thảo cho một công ước quốc tế trong tương lai, như CISG (xem nội dung ở trên). Bộ nguyên tắc này được coi như một công cụ ‘luật mềm’, không mang bất kì giá trị quy phạm nào - tương tự như INCOTERMS được soạn thảo bởi ICC. PICC được xuất bản đơn giản như một cuốn sáchvà bất kì ai quan tâm cũng có thể sử dụng các nội dung trong cuốn sách đó. Những trường hợp có thể áp dụng và bản chất của PICC được đề cập trong Lời nói đầu: Bộ nguyên tắc đưa ra các quy tắc chung dưới đây cho hợp đồng thương mại quốc tế. Bộ nguyên tắc này được áp dụng khi các bên thoả thuận rằng hợp đồng của họ sẽ được điều chỉnh bằng Bộ nguyên tắc này. Bộ nguyên tắc này có thể được áp dụng khi các bên thoả thuận rằng hợp đồng của họ sẽ được điều chỉnh bởi các nguyên tắc chung của pháp luật, ‘lex mercatoria’ hoặc cách diễn đạt tương tự như vậy. Bộ nguyên tắc này có thể được áp dụng khi các bên không chọn luật điều chỉnh hợp đồng của họ. Bộ nguyên tắc này có thể được sử dụng để bổ sung hoặc giải thích các văn bản luật quốc tế thống nhất. Bộ nguyên tắc này có thể được sử dụng để bổ sung hoặc giải thích cho luật trong nước. Bộ nguyên tắc này có thể được sử dụng làm mẫu cho các nhà làm luật quốc gia và quốc tế. Sau khi xuất bản bản lần đầu tiên vào năm 1994, PICC đã nhanh chóng trở thành nguồn tham khảo chính. Trong giới hàn lâm, PICC cũng không hề bị thờ ơ mà ngày càng được quan tâm. Phải thừa nhận ở nhiều góc độ rằng, hầu hết các mục đích được đề cập trong Lời nói đầu đều đã đạt được.

Mặc dù việc thu thập dữ liệu chính xác về vấn đề này không phải dễ dàng, nhưng thực tế đã diễn ra việc các bên trong hợp đồng quốc tế lựa chọn PICC như là luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng của họ.  Tuy nhiên, còn nhiều tranh cãi về việc các bên có nên hay không nên lựa chọn các quy phạm ‘luật mềm’ để thay thế cho việc áp dụng các quy phạm của hệ thống pháp luật quốc gia, khi sử dụng chúng với tư cách là luật áp dụng cho hợp đồng của họ. Trong bất kì trường hợp nào, PICC cũng giữ vai trò quan trọng khi mà các bên quyết định rằng hợp đồng của họ sẽ chịu sự điều chỉnh của lex mercatoria hay tập quán thương mại quốc tế. Nhiều phán quyết, cơ bản là của tổ chức trọng tài chứ không phải các toà trong nước, đều nhắc đến PICC nhằm chứng minh cho nội dung của công thức chung này. Thực tiễn cũng cho thấy sự dẫn chiếu thường xuyên đến PICC còn nhằm để hỗ trợ cho phán quyết được đưa ra trên cơ sở luật quốc gia hoặc luật quốc tế. Mặt khác, hiện nay PICC còn giữ vị trí hàng đầu trong số các động cơ thúc đẩy quá trình cải cách lập pháp đã và sẽ diễn ra ở một số nước, như Pháp, Đức, Nga, Lít-va, Ét-xtô-ni-a, Hung-ga-ri, Thổ Nhĩ Kỳ và Trung Quốc.

Trong tổ chức OHADA của 16 nước châu Phi, theo đề nghị của Hội đồng bộ trưởng, bản dự thảo Đạo luật thống nhất về luật hợp đồng đã lấy PICC làm mẫu. Hiện nay, một số hợp đồng mẫu được ICC cũng như Trung tâm thương mại quốc tế của WTO xây dựng cũng đưa ra lời khuyên cho các bên nên dẫn chiếu đến PICC để điều chỉnh những vấn đề chưa được đề cập trong hợp đồng mẫu. 84 Bản đầu tiên của PICC được xuất bản vào năm 1994. Bản thứ hai được xuất bản vào năm 2004 và đã bổ sung một số chương mới về quyền đại diện, quyền của bên thứ ba (set-off), nhượng quyền, chuyển giao nghĩa vụ, chuyển giao hợp đồng và thời hiệu. Bản thứ ba xuất bản vào năm 2010 đã mang đến sự đổi mới cơ bản trong các vấn đề về hiệu lực, bồi thường, điều kiện và hợp đồng nhiều bên. PICC 2010 bao gồm 211 điều (trong khi đó chỉ có 120 điều ở bản năm 1994 và 185 điều ở bản năm 2004). Bao gồm:

  1. Điều khoản chung;
  2. Giao kết hợp đồng và quyền đại diện;
  3. Hiệu lực;
  4. Giải thích hợp đồng;
  5. Nội dung, quyền của bên thứ ba và các điều kiện của hợp đồng;
  6. Thực hiện hợp đồng; (vii) Không thực hiện hợp đồng;
  7. Thực hiện bù nghĩa vụ (Set-off);
  8. Nhượng quyền, chuyển giao nghĩa vụ và chuyển giao hợp đồng;
  9. Thời hiệu;
  10. Hợp đồng nhiều bên.

Những giá trị tương ứng của common law và civil law đối với việc thúc đẩy hiệu quả kinh tế và phát triển là đối tượng của nhiều tranh cãi nảy lửa, được khơi mào trong các báo cáo Doing Business của Ngân hàng thế giới. Về khía cạnh này, PICC là một ‘sản phẩm’ độc đáo, ra đời từ sự hội tụ của nhiều nguồn cảm hứng đa dạng - phản ánh thành phần mang tính đại diện toàn cầu của Nhóm công tác. CISG, bản thân nó là sản phẩm của những cuộc tranh luận giữa đại diện của các hệ thống luật pháp khác nhau, cũng trở thành hình mẫu cho một số điều khoản trong PICC (xem nội dung dưới đây).

Điểm cuối cùng trong phần giới thiệu ngắn gọn này về PICC: Nhóm công tác thường xuyên quan tâm đến các nhu cầu và kì vọng của những nhà thực hành luật trong lĩnh vực hợp đồng quốc tế. PICC dành sự chú ý đặc biệt dành cho các điều khoản bị từ chối trong hoạt động pháp điển hoá quốc gia nói chung, nhưng lại xuất hiện vô cùng thường xuyên trong các hợp đồng thực tế. Ví dụ: các điều từ Điều 2.1.2 đến Điều 2.1.22 của phần Giao kết hợp đồng, cũng như các điều khoản về trở ngại (từ Điều 6.2.1. đến 6.2.3) và sự kiện bất khả kháng (Điều 7.1.7). Sự quan tâm rõ ràng đó đã góp phần giúp PICC trở thành nguồn tham khảo hấp dẫn đối với các bên tham gia hoạt động thương mại quốc tế

 

2. PICC và hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế

PICC có thể giữ vai trò gì liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế? Cụ thể, các nguyên tắc này có mối quan hệ thế nào tới các công cụ chuyên sâu hơn, như INCOTERMS và CISG, mà cả hai đều liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế? Không giống như hai văn bản trên, PICC không được soạn thảo để điều chỉnh chuyên về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. PICC là các quy phạm có thể áp dụng cho hợp đồng thương mại nói chung; chúng được xây dựng để điều chỉnh bất kì loại hợp đồng nào, không dành riêng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, mà áp dụng cho các loại hợp đồng đa dạng như hợp đồng cho thuê, hợp đồng xây dựng, hợp đồng phân phối, hợp đồng chuyển giao công nghệ hay hợp đồng cung ứng. PICC nêu rõ các quy phạm chung liên quan chủ yếu đến giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng và không thực hiện hợp đồng.

Điểm khác nhau cơ bản này đã đưa ra câu trả lời cho câu hỏi nêu trên. PICC, một mặt, giống với INCOTERMS và CISG, mặt khác cũng chứa đựng nhiều bổ sung. Trên thực tế, cả ba văn bản trên đều bổ sung cho nhau, mỗi văn bản thể hiện ở một mức độ khác nhau về tính khái quát và tính cụ thể. CISG xây dựng các quy phạm để điều chỉnh nhiều khía cạnh quan trọng nhất của một hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, như: Giao kết hợp đồng; Nghĩa vụ của bên bán (giao hàng, sự phù hợp của hàng hoá, quyền của bên thứ ba) và các biện pháp khắc phục vi phạm hợp đồng tương ứng cho người mua; Nghĩa vụ của người mua (thanh toán tiền hàng, nhận hàng) và các biện pháp khắc phục vi phạm hợp đồng tương ứng cho người bán; chuyển rủi ro; cũng như một số điều khoản áp dụng chung cho nghĩa vụ của cả hai bên.

INCOTERMS cũng điều chỉnh cụ thể về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, nhưng các quy định trong INCOTERMS chỉ điều chỉnh một vài vấn đề cụ thể, cơ bản là giao hàng và chuyển rủi ro, mỗi điều kiện cơ sở giao hàng đưa ra sự lựa chọn giữa những sắp xếp khác nhau, phù hợp với nhu cầu của các bên, và phụ thuộc vào bối cảnh kinh doanh của chính các bên. Một điều có thể thấy ngay rằng vấn đề chủ đạo của INCOTERMS đã được một số điều khoản của CISG điều chỉnh, đó là các vấn đề về giao hàng và chuyển rủi ro. Tuy nhiên, các quy phạm này của CISG là các quy định chung, áp dụng cho bất kì hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế nào, trong khi đối với giao dịch mua bán cụ thể, các bên thường ưa chuộng các quy phạm cụ thể và tinh tế như INCOTERMS hơn là các quy định chung. Trong hoàn cảnh đó, việc lựa chọn một quy định theo INCOTERMS là hoàn toàn tương thích với việc áp dụng CISG, điều này đơn giản là INCOTERMS sẽ thay thế các điều khoản tương ứng của CISG (điều này được cho phép bởi Điều 6 CISG).

Mặc khác, có thể thấy rằng, với tất cả các điều khoản khác giải quyết các vấn đề không được INCOTERMS điều chỉnh (giao kết hợp đồng, thanh toán tiền hàng, khắc phục vi phạm hợp đồng, v.v.), CISG vẫn có phạm vi áp dụng rộng trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Tương tự INCOTERMS nhưng ở mức độ khái quát cao hơn, PICC có thể áp dụng cho các hợp đồng mua bán kết hợp với CISG (cũng như kết hợp với INCOTERMS). CISG bao trùm nhiều lĩnh vực của quan hệ hợp đồng giữa bên mua và bên bán, tuy nhiên không phải là tất cả. Ví dụ, CISG đã tuyên bố rõ rằng nó không điều chỉnh vấn đề hiệu lực của hợp đồng (Điều 4), một vấn đề được PICC quy định chi tiết (từ Điều 3.1.1 đến Điều 3.3.2) . Có nhiều vấn đề khác CISG không điều chỉnh, vì các vấn đề đó không phải vấn đề riêng của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, như quyền đại diện, giải thích hợp đồng, các quy phạm chung về nội dung và thực hiện hợp đồng, thực hiện bù nghĩa vụ (‘set-off’), nhượng quyền, chuyển giao nghĩa vụ và chuyển giao hợp đồng, thời hiệu và hợp đồng nhiều bên. Nếu các bên muốn hưởng lợi ích từ việc được áp dụng một bộ các quy tắc điều chỉnh hợp đồng mua bán của mình, họ có thể thoả thuận rằng, ngoài CISG và INCOTERMS, hợp đồng của họ sẽ chịu sự điều chỉnh của PICC.

Theo nguyên tắc ‘luật riêng’ (‘lex specialis’) được ưu tiên áp dụng so với luật chung, INCOTERMS sẽ chiếm ưu thế hơn so với các quy định của CISG về giao nhận hàng hoá và chuyển rủi ro; đồng thời chính bản thân CISG sẽ chiếm ưu thế hơn so với PICC khi điều chỉnh các vấn đề như nghĩa vụ của các bên và biện pháp khắc phục vi phạm hợp đồng tương ứng. Tất nhiên, không có gì ngăn cản các bên làm giảm hiệu lực của điều khoản nào đó của CISG bằng việc ủng hộ các quy định của PICC (ví dụ, về vấn đề giao kết hợp đồng, hoặc về biện pháp khắc phục vi phạm hợp đồng nào đó). Sự kết hợp các công cụ nói trên có thể diễn ra một cách trôi chảy, vì chính PICC cũng chịu ảnh hưởng của CISG, mà cơ bản là liên quan đến một vài điều khoản về giao kết hợp đồng (so sánh các điều từ Điều 14 đến Điều 24 của CISG, với các điều từ Điều 2.1.1 đến Điều 2.1.11 của PICC), và các biện pháp khắc phục áp dụng đối với việc không thực hiện hợp đồng (so sánh các điều từ Điều 45 đến Điều 52 và các điều từ Điều 61 đến Điều 65 của CISG, với các điều từ Điều 7.1.1 đến Điều 7.4.13 của PICC). Hai công cụ trên đạt được tính tương thích ở mức độ cao và dường như không có vấn đề gì khi kết hợp chúng với nhau.

Kết luận Với tư cách là một Bộ nguyên tắc được xây dựng để điều chỉnh chung về hợp đồng, PICC đã đưa ra sự bổ trợ đáng quý cho các quy định điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế của CISG. Giống như CISG, PICC được soạn thảo công phu với hi vọng thoả mãn nhu cầu của các bên tham gia thương mại quốc tế, và cố gắng duy trì những giải pháp có thể chấp nhận được ở cả hai hệ thống common law và civil law. Vì PICC là công cụ ‘luật mềm’, nên các bên thường lựa chọn áp dụng. Tuy nhiên, trọng tài (đôi khi là cả trọng tài trong nước) ngày càng có xu hướng dẫn chiếu đến PICC, khi các bên trong hợp đồng lựa chọn các nguyên tắc chung về thương mại quốc tế để điều chỉnh quan hệ hợp đồng của họ.

>> Xem thêm: Đàm phán hợp đồng thương mại quốc tế như thế nào?

 

3. Giải thích dựa vào ý chí của các bên

Ý chí của các bên được coi là một dấu hiệu để giải thích HĐTMQT. Hợp đồng là sự thể hiện ý chí của các bên chủ thể. Do đó việc giải thích hợp đồng phải dựa trên ý chí chung của các bên trong quá trình giao kết hợp đồng. Các điều khoản của hợp đồng chính là kết quả đàm phán giữa các bên với mục đích chung mà cả hai bên chủ thể đều mong muốn. Vì vậy, kết quả giải thích hợp đồng dựa trên ý chí của các bên chính là sự thỏa mãn của các bên đối với sự giải thích này.
Tuy nhiên, trên thực tế, để xác định ý chí chung của các bên là không dễ dàng. Trong trường hợp không thể xác định được ý chí chung của các bên để làm cơ sở giải thích các điều khoản của hợp đồng thì người ta có thể giải thích theo cách hiểu của một người bình thường có cùng phẩm chất và ở cùng hoàn cảnh như các bên chủ thể giao kết hợp đồng. Trong bối cảnh này, thuật ngữ “người bình thường” là một thuật ngữ có nội dung khá trừu tượng. Do đó, thuật ngữ này cần được hiểu đúng theo cách hiểu của những người soạn thảo ra nguyên tắc này. Thuật ngữ “người bình thường” được hiểu là người có cùng trình độ, hoặc cùng kinh nghiệm trong cùng một lĩnh vực, cùng ngôn ngữ và hoàn cảnh với những người giao kết hợp đồng.
 

4. Giải thích dựa trên tính thống nhất của hợp đồng

Hợp đồng là sự thể hiện ý chí của các bên một cách thống nhất. Do đó, các điều khoản hoặc từ ngữ của hợp đồng phải được giải thích dựa trên tổng thể hợp đồng hoặc tuyên bố chứa đựng các điều khoản hoặc từ ngữ của hợp đồng. Trên thực tế, có những trường hợp các bên thỏa thuận xây dựng một số điều khoản, sử dụng một số từ ngữ nhưng các bên đã hiểu không thống nhất những điều khoản, những từ ngữ mà mình đã thỏa thuận. Trong trường hợp này, việc giải thích nội dung của các điều khoản và từ ngữ đó phải đặt trong bối cảnh chung, tổng thể của hợp đồng sao cho việc giải thích không làm mất đi tính thống nhất của hợp đồng. Nói cách khác, các điều khoản, từ ngữ không được giải thích một cách riêng biệt mà phải được đặt trong tổng thể dựa trên mục đích và nội dung của hợp đồng.

 

5. Giải thích về hiệu lực đầy đủ của hợp đồng

Để đảm bảo tính hiệu lực đầy đủ của hợp đồng, các điều khoản của hợp đồng phải được giải thích theo hướng làm cho mọi điều khoản đều có hiệu lực, hơn là giải thích theo hướng làm cho một số điều khoản của hợp đồng bị mất hiệu lực. Đây là nguyên tắc được dùng để giải thích hợp đồng trong trường hợp các nguyên tắc giải thích theo ý chí của các bên hoặc giải thích theo tuyên bố và hành vi của các bên đã được áp dụng nhưng các điều khoản và từ ngữ cần được giải thích vẫn không rõ nghĩa. Ví dụ, người chào hàng mang quốc tịch Canada, gửi một chào hàng cho người mua mang quốc tịch Thái Lan. Trong chào hàng này, người bán đã đề xuất một giá cho hàng hóa được tính bằng đôla. Tuy nhiên, là đôla nước nào thì không được ghi cụ thể. Sau khi hợp đồng đã ký kết thì các bên mới phát hiện ra thiếu sót của việc không xác định cụ thể đồng tiền tính giá. Trong trường hợp này, việc giải thích để xác định đôla nước nào cần phải theo hướng không làm mất đi hiệu lực của hợp đồng. Bởi vì, trong HĐTMQT nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng, điều khoản giá của hàng hóa được coi là điều khoản cơ bản của hợp đồng. Do đó, việc vi phạm các quy định về giá cả sẽ làm ảnh hưởng tới hiệu lực của hợp đồng. Trong trường hợp này cần được giải thích đồng tiền tính giá là đôla Canada bởi vì người chào hàng mang quốc tịch Canada nên khi chào hàng đã ngụ ý về đồng tiền tính giá là đồng đôla Canada là phù hợp thay vì đồng tiền tính giá là đồng đôla nước khác. Nếu giải thích đồng tiền thanh toán không phải là đôla Canada sẽ có thể làm ảnh hưởng tới hiệu lực của hợp đồng.

Luật Minh Khuê (sưu tầm và biên tập)