Mục lục bài viết
1. Luật áp dụng cho hợp đồng
Trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam, các hoạt động thương mại phải tuân theo Luật Thương Mại và pháp luật có liên quan (Khoản 1 Điều 1 và Khoản 1 Điều 4 Luật thương mại năm 2005). Tuy nhiên, các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài được thoả thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam (Khoản 2 Điều 5 Luật thương mại năm 2005).
Ngoài ra, đối với các hoạt động thương mại không được quy định trong Luật Thương mại và trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 (Khoản 3 Điều 4 Luật Thương Mại) vì về mặt nguyên tắc, Bộ luật dân sự được áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài,[1] trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác (Khoản 3 Điều 2 Bộ luật dân sự năm 2015).
>> Luật sư tư vấn luật đầu tư nước ngoài trực tuyến gọi: 1900.6162
2. Hiệu lực của hợp đồng
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là sự giao kết một giao dịch dân sự. Luật Thương Mại không có quy định về các điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có hiệu lực, nên chúng ta có thể dẫn chiếu các quy định trong Bộ luật dân sự, theo đó, giao dịch dân sự (hay hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế) có hiệu lực khi có đủ một số điều kiện.[2]
Về cơ bản CISG không điều chỉnh những nội dung này.[3]
3. Giao kết hợp đồng
Theo quy định của pháp luật Việt Nam đối với hợp đồng dân sự nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng, việc giao kết hợp đồng được thực hiện theo nguyên tắc “Đề Nghị – Chấp Nhận” (Offer – Acceptance). Cụ thể, hợp đồng được giao kết vào thời điểm Bên Đề Nghị nhận được trả lời Chấp Nhận giao kết của Bên Được Đề Nghị hoặc Bên Được Đề Nghị im lặng (nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết),[4] nội dung cụ thể như sau:
- Đề Nghị giao kết hợp đồng:[5]
- Đề nghị giao kết có hiệu lực (i) theo ấn định của Bên Đề Nghị hoặc (ii) khi Bên Được Đề Nghị nhận được đề nghị đó.[6] Bên Được Đề Nghị được xem là nhận được đề nghị khi (i) Đề Nghị được chuyển đến trụ sở của bên nhận đề nghị, (ii) Đề Nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của Bên Được Đề Nghị hoặc (iii) Bên Được Đề Nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các phương thức khác.[7]
- Đề Nghị giao kết có thể được rút lại hoặc thay đổi nếu (i) việc thay đổi hoặc rút lại Đề Nghị được thông báo trước hoặc vào thời điểm nhận được Đề Nghị của Bên Được Đề Nghị hoặc (ii) đáp ứng điều kiện của việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị nếu có quy định các điều kiện này trong Đề Nghị.[8] Đề Nghị giao kết chỉ có thể được hủy bỏ nếu (i) trong Đề Nghị có quy định quyền của Bên Đề Nghị có thể hủy bỏ và (ii) Bên Được Đề Nghị nhận được thông báo hủy bỏ trước khi trả lời Chấp Nhận đề nghị giao kết.[9]
- Đề Nghị giao kết được chấm dứt khi (i) Bên Được Đề Nghị không chấp nhận, (ii) hết thời hạn trả lời chấp nhận mà chưa nhận được Chấp Nhận của Bên Được Đề Nghị, (iii) thông báo thay đổi hoặc rút lại Đề Nghị có hiệu lực, (iv) thông báo hủy bỏ Đề Nghị có hiệu lực hoặc (v) các bên có thỏa thuận khác. Ngoài ra Đề Nghị có thể được sửa đổi theo đề xuất của Bên Được Đề Nghị (counter-offer). Trong trường hợp này, Bên Được Đề Nghị xem như đã đưa ra một Đề Nghị mới.[10]
- Chấp Nhận giao kết hợp đồng:[11]
- Chấp Nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn chờ trả lời chấp nhận đã được Bên Đề Nghị ấn định trong Đề Nghị. Quá thời hạn trên, nếu Bên Đề Nghị nhận được Chấp Nhận của Bên Được Đề Nghị, Chấp Nhận này sẽ được xem là Đề Nghị mới của Bên Được Đề Nghị đối với Bên Đề Nghị.[12] Trong trường hợp giao tiếp trực tiếp (kể cả điện thoại hoặc các phương tiện khác), Bên Được Đề Nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hay không chấp nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác (Bộ luật dân sự năm 2015). Chấp Nhận có thể được rút lại nếu đến trước hoặc vào cùng thời điểm Bên Đề Nghị nhận được Chấp Nhận này.[13]
Đối chiếu với các quy định liên quan của CISG, có thể nói, ngoại trừ một số chi tiết cụ thể, hầu hết các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến giao kết hợp đồng đều tương thích với những nguyên tắc cơ bản của Công ước Viên 1980. Chỉ có một số khác biệt nhỏ, thể hiện ở những quy định chi tiết hơn của Công ước.
"Ví dụ, CISG quy định cụ thể về điều khoản chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hóa (gồm tên hàng, số lượng, giá cả), còn pháp luật về mua bán hàng hóa của Việt Nam hiện nay không có quy định hợp đồng mua bán hang hóa phải có những điều khoản chủ yếu nào. Ngoài ra, CISG còn quy định rất rõ tại điều 19.3 về nội dung của chấp nhận chào hàng, qua đó có thể xác định được những sửa đổi bổ sung nào của chấp nhận chào hàng là cơ bản khiến cho chấp nhận chào hàng đó trở thành một chào hàng mới. Bộ luật dân sự Việt Nam cũ năm 2005 không có quy định cụ thể như vậy. Ngoài ra, do yêu cầu của thực tiễn thương mại quốc tế, CISG còn đưa ra quy định về việc kéo dài thời hạn hiệu lực của chào hàng khi ngày cuối cùng của chào hàng lại rơi vào ngày nghỉ hay ngày lễ, trong khi luật Việt Nam không quy định gì về vấn đề này"
4. Hình thức của hợp đồng
Theo pháp luật Việt Nam, hợp đồng mua bán hàng hoá được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể (Khoản 1 Điều 24 Luật thương mại năm 2005). Riêng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Luật thương mại năm 2005 chỉ công nhận theo hình thức văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.[14] Theo Bộ luật dân sự năm 2015 hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, trừ một số loại hợp đồng có yêu cầu riêng.[15]
CISG công nhận nguyên tắc tự do về hình thức hợp đồng, nghĩa là một hợp đồng mua bán hàng hóa không nhất thiết phải bằng văn bản mà có thể được thành lập bằng lời nói, bằng hành vi và có thể được chứng minh bằng mọi cách, kể cả bằng nhân chứng (Điều 11 CISG). Đây là một điểm khác biệt cơ bản giữa CISG và pháp luật Việt Nam về hình thức của hợp đồng. Tuy nhiên, sự khác biệt này không cản trở việc Việt Nam tham gia CISG vì Việt Nam có quyền bảo lưu sự khác biệt này theo điều 96 của CISG (như đã trình bày ở trên).
5. Quyền và nghĩa vụ của các bên
Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán được quy định chủ yếu tại các Điều từ Điều 34 đến Điều 62 Luật Thương mại 2005. Phân tích các quy định này cho thấy chúng có nội dung gần tương tự với quy định trong các điều khoản tương ứng của CISG. Lý do của điều này một phần được cho là do trong quá trình soạn thảo, các nhà làm luật Việt Nam đã tham khảo CISG trong quá trình soạn thảo Luật này.
Điểm khác biệt đáng kể nhất được tìm thấy là trong quy định về thời hạn khiếu nại về hàng hóa không phù hợp với hợp đồng. Theo Luật Thương mại Việt Nam, thời hạn này nhiều nhất là 6 tháng kể từ ngày giao hàng và đây là thời hạn phù hợp với các hợp đồng nội địa. CISG quy định thời hạn này tối đa có thể là 2 năm kể từ ngày giao hàng. Sự khác biệt này giữa Luật Thương mại và CISG là hoàn toàn có thể lý giải được do Luật Thương mại được soạn thảo để áp dụng cho hợp đồng trong nước, còn CISG được áp dụng cho hợp đồng mua bán quốc tế (được suy đoán là thường phức tạp hơn về kỹ thuật cũng như về các quy định pháp lý tương ứng).
6. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
Về các chế tài do vi phạm hợp đồng, pháp luật Việt Nam và CISG đều quy định về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bồi thường thiệt hại và hủy hợp đồng. Công ước Viên không quy định gì về phạt vi phạm hợp đồng do có nhiều quan điểm rất khác nhau giữa các nước Civil Law và Common Law về chế tài này khiến cho việc hài hòa hóa là không thể thực hiện được.
Chế tài hủy hợp đồng chỉ được áp dụng khi một bên vi phạm cơ bản hợp đồng. Điều 25 của Công ước và điều 3 khoản 13 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 đưa ra những định nghĩa không hoàn toàn giống nhau, nhưng đều thống nhất ở một điểm: vi phạm cơ bản là vi phạm gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho bên bị vi phạm, làm cho bên này không đạt được mục đích khi giao kết hợp đồng. Ngoài ra, CISG còn quy định một trường hợp được hủy hợp đồng, đó là khi bên vi phạm không không thực hiện nghĩa vụ trong thời hạn đã được gia hạn thêm (điều 49 khoản 1 và 64 khoản 1). Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 không có quy định tương ứng.
Về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, CISG và Luật Thương mại Việt Nam cho phép trái chủ lựa chọn một trong hai biện pháp: sửa chữa hay thay thế hàng hóa. Tuy vậy, câu hỏi đặt ra là căn cứ vào đâu để lựa chọn sửa chữa hay thay thế hàng hóa. Luật Thương mại Việt Nam 2005 không có quy định gì về vấn đề này, trong khi đó, CISG lại nêu rõ, trái chủ chỉ được áp dụng biện pháp thay thế hàng hóa khi vi phạm của thụ trái cấu thành vi phạm cơ bản, còn trong các trường hợp khác chỉ trái chủ chỉ được áp dụng biện pháp sửa chữa hàng hóa, loại trừ khuyết tật của hàng hóa[16].
Về bồi thường thiệt hại, luật Việt Nam và CISG đều quy định các thiệt hại được bồi thường bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải chịu do hậu quả của sự vi phạm hợp đồng. Về tính chất của thiệt hại được bồi thường, CISG nhấn mạnh đến tính có thể dự đoán trước của thiệt hại đối với bên vi phạm, còn pháp luật Việt Nam lại nhấn mạnh tính « trực tiếp » và « thực tế » (điều 302 Luật Thương mại năm 2005). Nguyên tắc hạn chế tổn thất đều được ghi nhận tại CISG và Luật Thương mại Việt Nam năm 2005.
Về các trường hợp miễn trách, CISG và pháp luật Việt Nam có cách tiếp cận tương tự khi quy định trường hợp bất khả kháng và trường hợp lỗi của bên bị vi phạm. Ngoải ra, CISG còn quy định cụ thể về việc miễn trách khi do lỗi của bên thứ ba (điều 79) trong khi pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về vấn đề này.
Ngoài ra, CISG còn có khá nhiều quy định chi tiết về biện pháp giảm giá hàng (điều 50), về cách áp dụng chế tài khi hợp đồng giao hàng từng phần (điều 71), về việc hủy hợp đồng ngay cả khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ (điều 72), về cách tính tiền bồi thường thiệt hại một cách cụ thể khi hợp đồng bị hủy (điều 75 và 76), về bảo quản hàng hóa đang tranh chấp (từ điều 85-điều 88).
Tóm lại, liên quan đến các chế tài do vi phạm hợp đồng mà CISG và pháp luật Việt Nam cùng quy định, CISG có các quy định đầy đủ và cụ thể hơn so với pháp luật Việt Nam. Bên cạnh đó, có vấn đề luật Việt Nam có quy định nhưng CISG lại không quy định (như chế tài phạt) và ngược lại. Một số điểm khác biệt khác cũng cần được lưu ý, như quy định về việc thay thế hàng hóa không phù hợp.
Tuy vậy, cần khẳng định là những sự khác biệt này không tạo nên mâu thuẫn đối kháng giữa CISG và pháp luật Việt Nam về mua bán hàng hóa (bởi hai hệ thống này bổ sung cho nhau, mỗi hệ thống được áp dụng cho một loại hợp đồng riêng).
Nguồn: “Nghiên cứu của VCCI về việc VN tham gia Công Ước Viên 1980″
---
[1] Quan hệ dân sự được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm quan hệ dân sự, quan hệ hôn nhân-gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động.
Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
[2] Theo Khoản 1 Điều 22 và Khoản 1 Điều 429 BLDS cũ năm 2005 Theo Khoản 2 Điều 25 của Luật Thương Mại, các điều kiện này bao gồm: (1) Chủ thể có năng lực hành vi dân sự; (2) Đối tượng của hợp đồng mua bán là tài sản được phép giao dịch (không thuộc hàng hoá cấm kinh doanh, hàng hoá hạn chế kinh doanh, hàng hóa kinh doanh có điều kiện); (3) Mục đích và nội dung không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; và (4) Chủ thể tham gia hoàn toàn tự nguyện.
[3] Điều 4 của CISG quy định: trừ khi có quy định cụ thể, Công ước không điều chỉnh tính hiệu lực của hợp đồng hay các điều khoản của nó; hiệu lực của hợp đồng đối với việc sở hữu hàng hóa đã bán.
[4] Khoản 1 và 2 Điều 404 BLDS cũ năm 2005. Điều này phù hợp với điều 15 của CISG. Riêng về vấn đề im lặng, Công ước quy định rõ tại Điều 18.1: im lặng hoặc không có hành động không được hiểu là Chấp Nhận.
[5]Bộ luật dân sự năm 2015, Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về Đề Nghị này của Bên Đề Nghị đối với Bên Được Đề Nghị đã được xác định cụ thể.
[6] Theo Điều 15.1 CISG, Đề nghị giao kết chỉ có hiệu lực khi Bên Được Đề Nghị nhận được đề nghị đó.
[7] Bộ luật dân sự năm 2015.
[8] Bộ luật dân sự năm 2015. Nếu Bên Đề Nghị giao kết hợp đồng với bên thứ ba trong thời hạn chờ trả lời chấp thuận của Bên Được Đề Nghị (nếu trong đề nghị có nêu rõ thời hạn trả lời), Bên Đề Nghị phải bổi thường thiệt hại cho Bên Được Đề Nghị nếu có thiệt hại phát sinh.
[9]Bộ luật dân sự năm 2015. Quy định này trên thực tế chặt chẽ hơn so với CISG, theo Điều 15.2 của CISG Đề nghị giao kết có thể được hủy bỏ ngay cả khi trong Đề Nghị không quy định quyền hủy bỏ của Bên Đề Nghị.
[11] Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: Chấp Nhận giao kết hợp đồng là sự đồng ý của Bên Được Đề Nghị đối với Bên Đề Nghị đối với toàn bộ nội dung của Đề Nghị (). Như vậy, nếu Bên Được Đề Nghị chỉ chấp nhận một phần nội dung của Đề Nghị và đề xuất sửa đổi hoặc đưa ra điều kiện đối với Bên Đề Nghị, Bên Được Đề Nghị đã đưa ra một Đề Nghị mới.
[12] Tuy nhiên Chấp Nhận vẫn có hiệu lực nếu đến chậm vì lý do khách quan với điều kiện Bên Đề Nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này trừ trường hợp Bên Đề Nghị trả lời ngay không đồng ý với Chấp Nhận đó.
[13] Điều 400 BLDS cũ năm 2005. Điều này hoàn toàn tương thích với Điều 15.2 của CISG.
[14] Khoản 2 Điều 27 Luật Thương Mại.
[15] Khoản 1 Điều 401 BLDS cũ năm 2005. Điều 11 của CISG cũng quy định tương tự, tức là một hợp đồng mua bán hàng hóa không nhất thiết phải ký bằng văn bản và không có yêu cầu nào về hình thức.
[16] Điều 46 và điều 62- CISG
(MKLAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích nghiên cứu, giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)