1. Lãi suất trong trọng tài quốc tế
Trong trọng tài quốc tế, các trọng tài viên được hưởng nhiều quyền quyết định khi đánh giá cả thiệt hại và việc trao quyền lợi. Không có cách tiếp cận thống nhất để xác định tỷ lệ lãi suất được trao trong các phán quyết trọng tài. Thường, ủy ban trọng tài phán quyết sự quan tâm phản ánh vị trí mà một nguyên đơn sẽ có, hành động hoặc sự thiếu sót của người trả lời chưa bao giờ diễn ra hoặc nếu số tiền đến hạn đã được thanh toán kịp thời. Vào những thời điểm khác, trọng tài có cách tiếp cận rất khác.
Công ước Viên về mua bán hàng quốc tế năm 1980 (CISG) có Điều 78 quy định về việc tính lãi trên khoản tiền chưa trả và không xác định cụ thể cách tính lãi suất nợ “Nếu một bên hợp đồng không thanh toán tiền hàng hoặc một khoản tiền nào đó thì bên kia có quyền được hưởng tiền lãi tính trên khoản tiền đó mà không ảnh hưởng đối với bất cứ yêu cầu nào về bồi thường thiệt hại có thể nhận được theo quy định của Điều 74”. Trong khi đó Bộ nguyên tắc Unidroit lại có một điều khoản chi tiết về tiền lãi từ việc không thanh toán (Điều 7.4.9) với việc xác định tỷ lệ lãi suất trung bình cho vay ngắn hạn của ngân hàng cho đồng tiền thanh toán của hợp đồng… Bên cạnh đó, Điều 7.4.10 của Bộ nguyên tắc còn quy định cụ thể về tiền lãi khoản tiền bồi thường thiệt hại “Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, tiền bồi thường thiệt hại do không thực hiện nghĩa vụ không phải là nghĩa vụ thanh toán làm phát sinh tiền lãi từ ngày không thực hiện”.
Ở đây, do Công ước CISG không quy định cụ thể cách xác định lãi suất, nên có thể áp dụng mức lãi suất của Bộ nguyên tắc Unidroit để giải quyết câu hỏi đặt ra bởi Công ước CISG16. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng chung lại thường sử dụng luật quốc gia điều chỉnh hợp đồng để ấn định mức lãi suất phù hợp hơn là lãi suất của Bộ nguyên tắc Unidroit17.
Theo Luật Thương mại Việt Nam 2005, Điều 306 quy định về tiền lãi: “Trong trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Ở đây, có thể nhận thấy sự khác biệt của Luật Thương mại Việt Nam trong việc sử dụng lãi suất nợ quá hạn so với lãi suất vay của Bộ nguyên tắc Unidroit - loại lãi suất bị cho là trong một số trường hợp đã bồi thường vượt quá cho bên bị vi phạm18*và không được áp dụng phổ biến so với lãi suất tiết kiệm19. Một sự khác biệt thứ hai có thể nhận thấy là sự đổi thay về lãi suất của Điều 306 Luật Thương mại 2005 so với Điều 233 Luật Thương mại 1997. Tiền lãi theo Điều 306 được tính theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường, khác với lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định vào thời điểm thanh toán trong Điều 233 Luật Thương mại Việt Nam 1997: “… thì bên kia có quyền đòi lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả…”. Việc áp dụng mức lãi suất thị trường của Luật Thương mại 2005 xem ra là hợp lý bởi vì phương pháp này sẽ đặt bên bị vi phạm vào vị trí như là họ đã đầu tư khoản tiền này trên thị trường20.
2. Vụ việc tranh chấp trong thương mại quốc tế
- Các bên:
+ Nguyên đơn: Người mua Ai Cập
+ Bị đơn: Người bán Nam Tư
- Các vấn để được để cập:
+ Luật áp dụng cho Hợp đồng
+ Giá hàng trên thị trường có thay đổi
+ Mua hàng thay thế
+ Tính toán lãi suất
- Tóm tắt vụ việc:
Ngày 20 tháng 8 năm 1987, các bên đã ký kết bản hợp đồng mua bán 80.000 tấn thép thanh với giá trung bình là 190,00 USD/tấn. Hàng được giao theo hợp đồng trong khoảng thời gian từ ngày 15 tháng 12 năm 1987 đến ngày 15 tháng 12 năm 1988 tại cảng Nam Tư.
Nguyên đơn có “Quyền mua đặc biệt”, quyển này cho phép Nguyên đơn tăng số lượng hàng mua lên đến 160.000 tấn với cùng giá cả và điều kiện như trên và phải tuyên bố thực hiện quyền đó chậm nhất là vào ngày 15 tháng 12 năm 1987 và mở L/C cho chuyến hàng đầu tiên chậm nhất vào ngày 31 tháng 12 năm 1987.
Ngày 26 tháng 11 năm 1987, Nguyên đơn đã thông báo cho Bị đơn rằng họ sẽ thực hiện “Quyền mua đặc biệt” này và sẽ mỗ L/C trong khoảng từ 15 đến 31 tháng 12 năm 1987. Do việc tăng giá thép trên thị trường thế giói, ngày 9 tháng 12 năm 1987, BỊ đơn đề nghị tổ chức một cuộc họp vào tháng đó để thảo luận về mức giá áp dụng chõ số lượng hàng mua thêm. Tại cuộc họp ngày 28 tháng 12 năm 1987, Bị đơn đề nghị mức giá 215USD/tấn cho số lượng hàng bổ sung, nhưng Nguyên đơn không chấp nhận và cương quyết giữ mức giá đã thoả thuận.
Trong văn thư đề ngày 31 tháng 12 năm 1987, Nguyên đơn nhấn mạnh rằng Bị đơn đã vi phạm hợp đồng và nếu cho đến ngày 6 tháng 1 năm 1988 Bị đơn vẫn không chấp thuận, thì Nguyên đơn sẽ buộc Bị đơn phải chịu trách nhiệm cho toàn bộ các thiệt hại bất kỳ do việc vi phạm hợp đồng gây ra. Thời hạn này sau đó đã được Nguyên đơn kéo dài tới ngày 25 tháng 1 năm 1988.
Ngày 26 tháng 1 năm 1988, Nguyên đơn đã mua 80.000 tấn thép thanh cùng loại của một công ty Rumani với giá 216 USD/tấn. Nguyên đơn viện cớ rằng chi phí vận chuyển đường biển từ Rumani tới Ai Cập thấp hơn từ 2 đến 2,5 USD/tấn so với từ Nam Tư tới Ai Cập.
Nguyên đơn đã khởi kiện theo điều khoản trọng tài trong hợp đồng ra trọng tài Phòng Thương mại Quốc tế (tại Paris - Pháp) đòi Bị đơn bồi thường thiệt hại do chênh lệch giá.
3. Phán quyết của trọng tài:
3.1. Luật áp dụng:
Uỷ ban trọng tài quyết định rằng luật Nam Tư là luật áp dụng cho hợp đồng vì các lý do sau:
Trong trường hợp này, trọng tài xác định rằng Công ước Viên của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế (ký ngày il tháng 4 năm 1980) không thể được áp dụng. Công ước này có hiệu lực ỏ Ai Cập, Nam Tư, cũng như tại Pháp, nhưng theo Điều 100(2) của Công ước, Công ước này chỉ áp dụng cho những hợp đồng mua bán được ký kết sau ngày Công ước có hiệu lực (ngàyl tháng 1 năm 1988) trong khi đó hợp đồng mua bán đang xét lại được ký vào ngày 20 tháng 8 năm 1987.
Việc xác định luật áp dụng cần phải được xem xét trên cơ sở các quy định của luật tư pháp quốc tế.
Theo luật tư pháp quốc tế của Ai Cập, nếu các bên trong hợp đồng mua bán có trụ sỏ ở nhiều nước khác nhau thì luật được áp dụng là luật của nước nơi ký kết hợp đồng, trừ khi các bên có thoả thuận khác (Điều 19 của Luật dân sự 1949).
Theo Luật tư pháp quốc tế của Nam Tư, luật áp dụng là luật của nựớc nơi mà bên bán có trụ sỏ chính tại thời điểm mà họ (hoặc bên khác) nhận được đề nghị chào hàng, nếu các bên không có thoả thuận về luật áp dụng.
Pháp là một trong các thành viên của Công ước Hague về luật áp dụng trong mua bán hàng hoá quốc tế (ngày 15 tháng 6 năm 1955). Điều 3(2) của Công ưốc này quy định nếu các bên không thoả thuận khác, hợp đồng sẽ được điều chỉnh bồi luật của quốc gia nơi bên bán có địa chỉ thưòng trú tại thời điểm mà họ nhận được đơn đặt hàng.
Vì trụ sỏ chính và địa chỉ thường trú của Người bán tại thời điểm tranh chấp là Nam Tư và vì hợp đồng mua bán được ký ỏ Nam Tư nên theo toàn bộ quy tắc áp dụng về tư pháp quốc tế, thì luật Nam Tư sẽ là luật áp dụng.
3.2. Trở ngại của Hợp đồng:
Đoạn 1 và 2 của Điểu 133 luật Nam Tư năm 1978 trích như sau:
(1) Trong trưòng hợp có những biến cố xảy ra sau khi ký kết hợp đồng làm cho việc thực hiện hợp đồng của một trong các bên gặp khó khăn hoặc mục đích của hợp đồng không thể đạt được và hợp đồng không còn đáp ứng được mong muốn của các bên cũng như việc tiếp tục giữ nguyên hợp đồng sẽ là không công bằng thì bên gặp khó khăn trong việc thực hiện hợp đồng hoặc không đạt được mục đích của hợp đồng do có thay đổi hoàn cảnh (do có biến cố) có thể yêu cầu hủy bỏ hợp đồng.
(2) Không thể yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng nếu bên viện dẫn biến cố (sự thay đổi hoàn cảnh) đã lường trước được biến cố này tại thời điểm ký kết hợp đồng hoặc đã có thể vượt qua hoặc khắc phục nó.
Bên cạnh Điều 133 của Luật Nghĩa vụ, Quy tắc số 56 (hiện vẫn đang có hiệu lực thi hành tại Nam Tư) liệt kê "các sự kiện kinh tế, chẳng hạn như sự đột biến, và sự tăng hoặc giảm mạnh về giá cả" là một trong những nguyên nhân cản trở việc thực hiện hợp đồng.
Vì vậy, Uỷ ban trọng tài phải xem xét liệu việc giá thép tăng từ 190 USD lên 215 USD/tấn có phải là tăng đột biến giá hay không và nếu vậy, liệu Bị đơn có tính đến tình huống này tại thời điểm hợp đồng được ký kết không.
Kinh nghiệm cho thấy, giá cả hàng hoá trên thị trường thế giối, mà đặc biệt là thép, luôn biến động. Tại thời điểm ký hợp đồng, giá thép đã bắt đầu tăng nhẹ và có xu hướng tiếp tục tăng trong khoảng thời gian từ khi ký kết hợp đồng đến khi thực hiện "quyền mua đặc biệt", thậm chí có thể tăng hơn nữa vào cuôì năm 1988.
Trong trưòng hợp này, giá thép trên thị trường thế giới tăng từ 190 USD lên 215 USD (tức là khoảng 13,6%). Theo đánh giá của Uỷ ban trọng tài, việc bán thép theo giá thoả thuận (giá bán theo “quyền mua đặc biệt”) thay vì giá hiện tại trên thị trường với mức "thiệt" 13,6% hoàn toàn nằm trong phạm vi rủi ro về giá cả theo tập quán.
Hơn nữa, việc tăng giá cũng có thể dự đoán được. Một người bán hàng bình thường cần phải dự liệu được rằng giá thép có thể tăng hơn so với tình hình thực tế, thậm chí mức tăng còn có thể cao hơn nhiều so với mức tăng trong vụ việc đang xét. Việc xem xét liệu Bị đơn, người bán, có hợp lý không khi chấp thuận "quyền mua đặc biệt" với cùng một mức giá trong thời gian tương đối dài như vậy không thuộc thẩm quyền của uỷ ban trọng tài. về mặt nguyên tắc, Bị đơn, người bán, vẫn có thể khuyến khích người mua khi họ ký hợp đồng đầu tiên bằng cách đưa vào điều khoản "quyền mua đặc biệt" mà vẫn bảo lưu quyền được viện dẫn Điều 133 Luật nghĩa vụ nếu giá cả tiếp tục tăng mạnh. Trên thực tế, Bị đơn đã không đưa ra bảo lưu này và vì vậy không thể viện dẫn lý do tăng giá thép để từ chốỉ "quyền mua đặc biệt" của Nguyên đơn.
4. Mua hàng thay thế và tính toán lãi suất:
Bị đơn giữ ý kiến của mình rằng việc mua 80.000 tấn thép từ một công ty Rumania của Nguyên đơn không thể coi là việc mua hàng thay thế, vì Bị đơn không được thông báo trước về ý định mua hàng cụ thể của Nguyên đơn, và hơn nữa, vì Bị đơn đã chào giá thép là 215 USD/tấn và thấp hơn giá mà Nguyên đơn mua của công ty Rumania, thêm vào đó, thép của Bị đơn có chất lượng tốt hơn.
Trưóc tiên, ở đây cần làm rõ sự tác động qua lại về mặt pháp lý giữa Điều 262 và 525 Luật Nghĩa vụ của Nam Tư. Điều 262 cho phép các bên của hợp đồng quyền đòi bồi thưòng những thiệt hại mà họ phải gánh chịu từ việc không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc chậm trễ các nghĩa vụ của bên kia. Điều 525, đề cập đến việc mua hàng thay thế, coi việc mua hàng thay thế là giải pháp giảm thiệt hại cho một bên tham gia hợp đồng nếu bên đó đưa ra được các chứng cứ về thiệt hại mà họ phải gánh chịu.
Cả hai bên đều không phản đối thực tế là giá thép trên thị trường thế giới (cùng loại hàng giao) đã tăng ít nhất tới 215 USD/tấn tại thời điểm thực hiện “quyền mua đặc biệt”. Tuy nhiên, Bị đơn cho rằng với các biểu hiện của sự tăng giá này, Nguyên đơn lẽ ra phải mua thép của Bị đơn, việc Nguyên đơn trên thực tế đã mua thép từ Rumani với giá cao hơn giá Bị đơn chào bán là hết sức vô lý.
Trong Bản giải trình cuối cùng, Nguyên đơn khẳng định rằng họ đã thực sự mua được giá rẻ hơn, họ đã trả 216,50 USD/ tấn nhưng tiết kiệm được 2 - 2,5 USD/ tấn cước phí vận chuyển. Thiệt hại của họ vì vậy thấp hơn so với sự chênh lệch giá trên thị trường thế giới. Số lượng thiệt hại chỉ là sự chênh lệch giữa 190 USD và 214 USD/ tấn la 24 USD/ tấn.
Bị đơn cho rằng Nguyên đơn phải trả khoản thuế nhập khẩu hàng của Rumani cao hơn hàng của Nam Tư, tuy nhiên điều này hoàn toàn không liên quan vì Nguyên đơn không hề đòi bồi thường bất kỳ khoản thiệt hại bổ sung nào phát sinh từ việc mua hàng thay thế. Thắc mắc của Bị đơn liên quan đến việc liệu thép mua của công ty Rumani có chất lượng thấp hơn so với loại thép mà Bị đơn cung cấp không cũng không có liên quan gì trong vụ việc này. Đối với Nguyên đơn thì chất lượng thép là tương đương.
Về nghĩa vụ phải thông báo của Nguyên đơn như lập luận của BỊ đơn, uỷ ban trọng tài cho rằng việc Nguyên đơn không thông báo cho BỊ đơn biết về việc mua hàng thay thế không vi phạm Điều 525.
Từ các lập luận nêu trên, trong tài đi đến kết luận rằng trong trường hợp này Nguyên đơn hoàn toàn có quyền yêu cầu Bị đơn bồi thường khoản chênh lệch giá do phải mua thép của một bên thứ ba thay thế cho số thép đáng lẽ đã mua của Bị đơn theo quyền mua đặc biệt. Tuy nhiên, Nguyên đơn chỉ có thể đòi bồi thường khoản thiệt hại thực tế mà họ phải chịu, ỗ đây, khoản thiệt hại được tính là mức chênh lệch giữa giá mua đặc biệt (190 USD/tấn) và giá mua thực tế mà Nguyên đơn đã phải trả cho công ty Nam Tư (216,5 USD/tấn) sau khi đã trừ đi khoản tiền mà Nguyên đơn tiết kiệm được từ việc vận chuyển (khoảng 2,5 USD/tấn). Như vậy Bị đơn sẽ phải bồi thưòng cho Nguyên đơn một khoản tiên là 80.000 X 24 USD = 1 920.000 USD
5. Về khoản lãi phải bồi thường:
Theo Điều 277 của Luật nghĩa vụ Nam Tư, lãi được tính cho bên chủ nợ đốì với một khoản thiệt hại kể từ ngày mà bên nợ bắt đầu không thực hiện nghĩa vụ. Bị đơn không thực hiện nghĩa vụ thể hiện ở chỗ từ chối giao hàng theo giá đã thoả thuận buộc Nguyên đơn phải mua hàng thay thế. Việc không thực hiện của Bị đơn bắt đầu từ ngày mà họ phải giao hàng nhưng đã không giao. Theo hợp đồng mua bán, 80.000 tấn thép của “quyền mua đặc biệt” phải được giao theo 5 lần giao hàng từng phần với khối lượng tương tự trong khoảng tháng 1 và tháng 5 năm 1988. Do vậy Bị đơn đã nợ quá hạn 1/5 của tổng số hàng vào ngày 1 tháng 2; ngày 1 tháng 3; ngày 1 tháng 4; ngày 1 tháng 5 và ngày 1 tháng 6 năm 1988. Lãi suất có thể được tính theo tổng số nợ quá hạn bắt đầu từ ngày giao hàng của chuyến hàng thứ ba.
Mức lãi suất theo quy định dao động trong khoảng 6,25 - 8,25%. Không thể dự đoán trước được về lãi suất sẽ 'tăng như thế nào vì có khoảng cách về thời gian giữa thời điểm Uỷ ban trọng tài ban hành phán quyết và thồi điểm Bị đơn thực hiện tự nguyện hoặc cưỡng chế thực hiện nên Uỷ ban trọng tài cũng phải ấn định mức lãi suất trong tương lai, ví dụ: cho tối khi Bị đơn thực hiện tự nguyện hoặc cưỡng chế thực hiện phán quyết. Trên cơ sỏ xem xét đến trị giá tăng trưỏng trung bình, uỷ ban trọng tài cho rằng mức lãi suất 7,25% là phù hợp.