1. Khái niệm giám định tư pháp

Giám định tư pháp là việc sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kĩ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự do người giám định tư pháp thực hiện theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nhằm phục vụ cho việc giải quyết vụ án.

Căn cứ theo Khoản 1 Điều 1 Luật Giám định tư pháp sửa đổi 2020 (có hiệu lực từ 01/01/2021) thì giám định tư pháp được định nghĩa như sau:

Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật này.

2. Vị trí, vai trò và địa vị pháp lý của giám định tư pháp trong tố tụng dân sự

Giám định tư pháp là việc sử dụng những kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ án) do người giám định tư pháp thực hiện theo quyết định trưng cầu giám định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nhằm phục vụ cho việc giải quyết các vụ án.

Vì vậy, để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự nói riêng và vụ án hình sự, hành chính nói chung, việc thu thập đầy đủ các tài liệu, chứng cứ có tính quyết định, mà một trong những nguồn chứng cứ quan trọng là kết luận giám định. Cho nên, vai trò của giám định thể hiện ở hai phương diện sau:

- Cung cấp nguồn chứng cứ cho hoạt động tranh tụng.

- Tham gia trực tiếp vào quá trình tranh tụng (thông qua việc giải thích kết luận giám định).

Trước tình hình ngày càng có nhiều vụ việc dân sự phức tạp, các tài liệu, chứng cứ do đương sự xuất trình chưa rõ ràng, mâu thuẫn nhau thì giám định tư pháp ngày càng thể hiện vị trí đặc biệt trong việc tìm ra sự thật khách quan, xác lập chứng cứ phục vụ điều tra, truy tố, xét xử, nhằm bảo vệ quyển và lợi ích hợp pháp của các bên, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Có thể khẳng định kết quả giám định là một nguồn chứng cứ không thể thiếu trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, vụ án hành chính, hình sự.

Do đó, công tác giám định và người giám định có VỊ trí, vai trò, ý nghĩa hết sức to lớn trong hoạt động tố tụng hình sự, hành chính nói chung và trong việc bảo đảm tính chính xác, khách quan đúng pháp luật của hoạt động tố tụng dân sự nói riêng. Giám định tư pháp đã và sẽ mãi mãi là hoạt động không thể thiếu trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, hành chính, kinh tế, hình sự. Với yêu cầu ngày càng cao trong việc nâng cao chất lượng xét xử thì giám định tư pháp ngày càng có vai trò quan trọng. Có rất nhiều vụ việc dân sự, vụ án hành chính, hình sự nếu không có giám định tư pháp thì không thể điều tra, truy tố xét xử đúng đắn, chính xác, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên, bảo vệ trật tự xã hội. Ví dụ: Trong vụ án truy nhận cha cho con có nhiều người cùng quan hệ vối người phụ nữ trong khoảng thời gian có thể thụ thai hoặc chưa xác định được ai là ngưòi đã quan hệ vôi mẹ đứa trẻ, nếu không có giám định gen thì không thể kết luận chính xác ai là cha của đứa trẻ, hoặc trong giám định về giá, về thiệt hại trong xây dựng, nếu không giám định đúng thì làm sao có thể xác định được giá trị tài sản, mức độ vặ nguyên nhân thiệt hại.

Kết quả giám định không chỉ tạo cơ sỏ cho các phán quyết đúng đắn mà còn tiết kiệm được thời gian, tiền của, công sức cho cả cơ quan tố tụng lẫn các bên đương sự, giúp cho các bên có cơ sở để thương lượng, hòa giải hoặc rút đơn khởi kiện, từ đó tiết kiệm được thời gian xác minh, kiểm tra, thu thập chứng cứ, thời gian giải quyết vụ việc dân sự. Mặt khác, việc giám định bảo đảm tính khách quan, khoa học sẽ tạo ra cho đương sự nói riêng và những người tham gia tố tụng cũng như nhân dân nói chung tâm lý tin tưỏng vào phán quyết của Tòa án, đương sự sẽ ít kháng cáo, khiếu nại (đặc biệt trong các vụ án truy nhận cha cho con).

Tuy nhiên, cồng tác giám định ở Việt Nam từ trước tới nay chưa được quan tâm một cách đúng mức, chưa có một mô hình tổ chức hoàn chỉnh cho tất cả các loại giám định. Cán bộ làm công tác giám định chủ yếu kiêm nhiệm; có những lĩnh vực hoạt động giám định còn thiếu tính chất chuyên nghiệp, cán bộ giám định chưa được đào tạo một cách chíhh quy; các chế độ chính sách đốì vởi giám định viên cũng chưa được quan tâm đầy đủ, trong khi đó các quan hệ xã hội ngày càng phát triển, nhất là trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dưới sự tậc động của mặt trái cơ chế thị trường các tội phạm và các tranh chấp dân sự, hành chính ngày càng diễn biến phức tạp. Vì vậy, phải không ngừng hoàn thiện, củng cố công tác giám định; đặc biệt là nâng cao năng lực của các tổ chức giám định và giám định viên hiện có là một yêu cầu cấp thiết. Bởi lẽ, sản phẩm giám định tư pháp là kết quả hoạt động của Giám định viên; nếu không có Giám định viên tư pháp sẽ không có giám định tư pháp, họ là một bộ phận cấu thành của giám định tư pháp.

Người giám định tư pháp bao gồm:

- Giám định viên tư pháp;

- Người giám định tư pháp theo vụ việc.

Giám định viên tư pháp có thể làm việc tại tổ chức giám định tư pháp, tổ chức chuyên môn. Như vây, người có đủ tiêu chuẩn và điều kiện như: có trình độ đại học trỏ lên, đã qua thực tế hoạt động chuyên môn theo ngành đã học từ 5 năm trở lên, có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực hành vi đầy đủ thì đều có thể được bổ nhiệm làm Giám định viên tư pháp mà không phân biệt là công chức nhà nưốc hay là người hoạt động chuyên môn ở đơn vị, tổ chức không phải là cơ quan nhà nưóc, thậm chí họ có thể là ngưòi hoạt động tự do. Những người này được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và cấp thẻ Giám định viên.

Người giám định tư pháp theo vụ việc, tuy không phải là Giám định viên tư pháp, nhưng họ có kiến thực sâu về lĩnh vực cần giám định và có uy tín trong lĩnh vực đó thì cũng có thể được trưng cầu giám định theo vụ việc.

Giám định viên tư pháp có địa vị pháp lý độc lập trong tố tụng dân sự, họ là người tham gia tố tụng, là chủ thể có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng, trong đó có những quyền về tố tụng nhằm tạo điều kiện cho người giám định hoàn thành tốt những nhiệm vụ như: “a) Được đọc các tài liệu có trong hồ sơ vụ án liên quan đến đối tượng giám định; yêu cầu Tòa án cung cấp những tài liệu cần thiết cho việc giám định; b) Đặt câu hỏi đối với người tham gia tố tụng về những vấn đề có liên quan đến đối tượng giám định” (Điều 80 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành).

3. Quyền và nghĩa vụ của người trưng cầu giám định tư pháp

Điều 21 Luật Giám định tư pháp sửa đổi 2020 quy định:

“1. Người trưng cầu giám định có quyền:

a) Trưng cầu cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 4 Điều 2 của Luật này thực hiện giám định;

b) Yêu cầu cá nhân, tổ chức quy định tại điểm a khoản 1 Điều này trả kết luận giám định đúng nội dung và thời hạn đã yêu cầu;

c) Yêu cầu cá nhân, tổ chức đã thực hiện giám định tư pháp giải thích kết luận giám định.

2. Người trưng cầu giám định có nghĩa vụ:

a) Xác định rõ nội dung, lĩnh vực hoặc chuyên ngành cần giám định trong vụ án, vụ việc đang giải quyết; lựa chọn cá nhân, tổ chức có năng lực, đủ điều kiện thực hiện giám định phù hợp với tính chất, nội dung cần giám định để ra quyết định trưng cầu giám định;

b) Ra quyết định trưng cầu giám định bằng văn bản;

c) Cung cấp kịp thời, đầy đủ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về thông tin, tài liệu, mẫu vật có liên quan đến đối tượng, nội dung cần giám định theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp;

d) Tạm ứng, thanh toán kịp thời, đầy đủ chi phí giám định tư pháp;

đ) Thực hiện hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để bảo vệ người giám định tư pháp hoặc người thân thích của người giám định tư pháp khi có căn cứ xác định tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người giám định tư pháp hoặc người thân thích của người giám định tư pháp bị đe dọa do việc thực hiện giám định tư pháp, tham gia vụ án, vụ việc với tư cách là người giám định tư pháp.”

4. Quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu giám định tư pháp

Điều 22 Luật Giám định tư pháp sửa đổi 2020 quy định

“1. Người yêu cầu giám định có quyền gửi văn bản yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng không chấp nhận yêu cầu thì trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu trưng cầu giám định, phải thông báo cho người yêu cầu giám định bằng văn bản. Hết thời hạn nói trên hoặc kể từ ngày nhận được thông báo từ chối trưng cầu giám định, người yêu cầu giám định có quyền tự mình yêu cầu giám định.

2. Người yêu cầu giám định có quyền:

a) Yêu cầu cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp trả kết luận giám định đúng thời hạn đã thỏa thuận và theo nội dung đã yêu cầu;

b) Yêu cầu cá nhân, tổ chức đã thực hiện giám định tư pháp giải thích kết luận giám định;

c) Đề nghị Tòa án triệu tập người giám định tư pháp đã thực hiện giám định tham gia phiên tòa để giải thích, trình bày về kết luận giám định;

d) Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định lại; yêu cầu giám định bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này.

3. Người yêu cầu giám định tư pháp có nghĩa vụ:

a) Cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến đối tượng giám định theo yêu cầu của người giám định tư pháp và chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin, tài liệu do mình cung cấp;

b) Nộp tạm ứng chi phí giám định tư pháp khi yêu cầu giám định; thanh toán kịp thời, đầy đủ chi phí giám định cho cá nhân, tổ chức thực hiện giám định khi nhận kết luận giám định.

4. Người yêu cầu giám định chỉ được thực hiện quyền tự yêu cầu giám định trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.”

5. Về kết luận giám định trong tố tụng dân sự

Giai đoạn kết luận là kết quả của tất cả các giai đoạn giám định trước đó. ở giai đoạn này, Giám định viên đánh giá lần cuôì những kết quả giám định đã thu được; đánh giá sự đồng nhất và đánh giá những khác biệt để đi đến kết luận.

a) Kết luận giám định phải được lập thành văn bản và có nội dung chính sau đây:

- Họ, tên người thực hiện giám định;

- Tên cơ quan tiến hành tố tụng hoặc họ, tên người tiến hành tố tụng trưng cầu giám định; số văn bản trưng cầu giám định;

- Thời gian nhận văn bản trưng cầu giám định;

- Nội dung yêu cầu giám định;

- Phương pháp thực hiện giám định;

b) Kết luận về đối tượng giám định:

- Bản kết luận giám định phải có chữ ký của người giám định tư pháp; trong trưòng hợp tổ chức được trưng cầu giám định thì bản kết luận giám định còn phải được người đứng đầu tổ chức đó ký tên, đóng dấu.

Khi Giám định viên kết luận giám định thì nội dung kết luận thường thể hiện dưới các dạng sau đây:

- Kết luận khẳng định:

Kết luận khẳng định đồng nhất: được đưa ra nếu thấy rằng những đặc điểm cá hiệt và Ổn định đã xác định được có ở dấu vết, vật chứng cần giám định, đồng thời củng có ở mẫu so sánh và tuy có những khác biệt, nhưng không cơ bản, xuất hiện ngẫu nhiên, có thể giải thích được.

Kết luận khẳng định không đồng nhất: được đưa ra nếu thấy rằng có những khác biệt cơ bản, xuất hiện tất nhiên, ổn định giữa những đặc điểm của đối tượng cần giám định và đối tượng là mẫu so sánh.

- Kết luận khả năng:

+ Kết luận khả năng đồng nhất: được đưa ra khi có một số lượng nhất định những đặc điểm cá biệt giống nhau, nhưng tính ổn định không cao và số lượng những đặc điểm giông nhau chưa đủ để kết luận khẳng định đồng nhất. Giám định viên phát hiện thấy những khác biệt, nhưng không giải thích được. Nếu có nhiều thông tin hơn nữa thì có thể kết luận khẳng định đồng nhất được.

+ Kết luận khả năng không đồng nhất: được đưa ra khi có nhiều đặc điểm của đối tượng cần giám định và mẫu so sánh khác biệt nhau, nhưng lại có những đặc điểm giống nhau. Tuy nhiên, sự khác biệt lớn hơn sự giống nhau, nhưng lại không giải thích được những đặc điểm giống nhau. Nếu có nhiều thông tin hơn nữa thì có thể khẳng định kết luận không đồng nhất”.

c) Ngoài ra, trong thực tế còn có loại kết luận giám định khác như: không đủ yếu tố để giám định; hoặc giám định về tự dạng, phần kết luận về đối tượng giám định chữ viết: chữ viết trên mẫu A với chữ viết trên mẫu B không phải do một người viết ra hoặc do cùng một người viết ra, mà không thấy phân tích về sự đồng nhất hay những sự khác biệt, không đề cập đến phương pháp giám định trong bản kết luận.

Thời gian qua, nhìn chung, các kết luận giám định là rõ ràng, có chất lượng tương đốỉ tốt, viết gọn rõ, dễ hiểu, giải đáp được tất cả các vấn đề đặt ra trong quyết định trưng cầu giám định. Tuy nhiên, cũng có những bản giám định chưa thật tốt. Cụ thể là có bản kết luận giám định chưa thể hiện rõ ý kiến của Giám định viên; có bản kết luận giám định chưa được người giám định kiến giải một cách đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu những vấn đề cần làm sáng tỏ; có những bản kết luận giám định viết quá vắn tắt đến nỗi rất khó hiểu, làm cho người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng không hiểu được, hiểu không đúng về kết luận giám định, thậm chí có những bản giám định mà nội dung kết luận đoạn trên, đoạn dưới mâu thuẫn nhau; có bản kết luận không trình bày phương pháp thực .hiện giám định (gắn vối nó là phương tiện) để người tiến hành tố tụng có điều kiện đánh giá xem phương pháp giám định nào khoa học, tiên tiến hơn, từ đó, có điều kiện đánh giá bản kết luận giám định nào chứa đựng độ chính xác cao hơn; có trường hợp nội dung trong kết luận giám định lần đầu, với kết luận giám định lần sau mâu thuẫn nhau làm cho vấn đề trỏ nên phức tạp.

Viết bản kết luận giám định như thế nào cho tốt còn phụ thuộc vào năng lực chuyên môn, năng lực thể hiện của Giám định viên. Chúng ta thấy cách thể hiện trong kết luận giám định cũng có ý nghĩa quan trọng dưới góc độ là những người sử dụng kết quả giám định thì nếu kết luận giám định thể hiện dưới dạng khẳng định thường tạo niềm tin cao cho người tiến hành tố tụng, trong đó có Thẩm phán. Thông thường, người tiến hành tố tụng chỉ bác bỏ, không chấp nhận nội dung kết luận giám định là chứng cứ của vụ án khi các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ có nhiều điểm rõ ràng trái ngược với kết luận giám định. Các kết luận dưới dạng khả năng thì việc công nhận nội dung kết luận giám định là chứng cứ của vụ án khi nó phù hợp với nhiều tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ.

Kết luận giám định là một trong nhiều loại chứng cứ mà cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét, đánh giá.

Khi kết luận giám định được thể hiện rõ ràng, thông qua một quy trình làm việc khách quan có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hệ thống các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, nó có ảnh hưỗng rất lổn đến tư duy và việc ra các quyết định của Thẩm phán nói riêng, của người tiến hành tố tụng nói chung. Trong các vụ án phức tạp, có nhiều tài liệu mâu thuẫn nhau, hoặc các tài liệu do đương sự cung cấp chưa đủ độ để định hình rõ nét sự thật trong quan hệ tranh chấp đó thì kết luận giám định gần như cổ vai trò là chứng cứ duy nhất quyết định, ví dụ như các bản giám định gen về việc xác định cha mẹ cho con, giám định nguyên nhân lún, nứt trong xây dựng, giám định niên đại cổ vật, V.V.. Tuy nhiên, không phải kết luận giám định nào cũng có sức nặng, sức chi phối như nhau, mà phụ thuộc vào nội dung của bản kết luận giám định, phương pháp, phương tiện giám định và sự phù hợp của các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ. Thông thường, các bản kết luận giám định có nội đung rõ ràng, thể hiện cách làm khoa học tỉ mỉ, chặt chẽ, khách quan, tính khẳng định trong kết luận giám định cao, có sự phù hợp ỏ mức độ nhất định vối các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thì thường củng cố niềm tin cho Thẩm phán, người tiến hành tố tụng khi ra quyết định.

Trên thực tế đối với những vụ việc phức tạp về tài liệu, chứng cứ mà kết luận giám định lại không rõ ràng hoặc phương pháp, phương tiện tiến hành giám định còn thủ công thì việc yêu cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại hay xảy ra và thật phức tạp khi bản kết luận giám định sau lại khác biệt nhiều hoặc hoàn toàn mâu thuẫn với bản kết luận trước, sẽ đưa lại những nhận thức trái ngược cho người tiến hành tố tụng, tạo ra sự “dao động” trong niềm tin của người tiến hành tố tụng, vẫn biết rằng, nguyên nhân dẫn đến sự xung đột trong kết luận giám định thì rất nhiều, có khi chỉ là do sự biến đổi về chất của đối tượng giám định do không được bảo quản chu đáo, đúng cách hoặc chỉ đơn thuần là sự biến đổi theo thời gian do đối tượng giám định có diễn biến phức tạp ví dụ như chấn thương kín bên trong, chấn thương sọ não, V.V.. Nhưng cũng có thể do phương pháp giám định chưa thật khoa học, hoặc phương tiện, máy móc thực hiện giám định còn thô sơ hoặc mức độ tiên tiến có hạn dẫn đến những kết luận giám định khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Song, những mâu thuẫn trong kết luận giám định nhiều khi còn xuất phát từ phía con người, do người giám định đâ không tuân thủ nghiêm ngặt, chặt chẽ quy định, quy chuẩn giám định, hoặc do năng lực của người giám định hạn chế, họ không đủ khả nâng chuyên môn, nghiệp vụ để phân tích, kiến giải các thông tin thu được hoặc không vô tư, khách quan khi tiến hành giám định, điều đó sẽ đưa đến hậu quả là các bản kết luận giám định trước và kết luận giám định sau có nội dung mâu thuẫn nhau.

Tuy nhiên, công bằng trong nhìn nhận, đánh giá thì có những trường hợp bản kết luận giám định đã được thể hiện rất tốt, nhưng không phải lúc nào phía ngưòi sử dụng cũng biết khai thác, sử đụng có hiệu quả. Nguyên nhân là do vể phía người tiến hành tố tụng, cũng có những người do năng lực hạn chế, thiếu trách nhiệm hoặc chưa khách quan nên dù nội dung bản kết luận là chính xác mà vẫn không chấp nhận, dù không đưa ra được chứng cứ, lý lẽ để bác bỏ; cũng có trường hợp người tiến hành tố tụng do thiếu bản lĩnh nghề nghiệp, không có những kiến thức cơ bản về giám định nên dù bản kết luận giám định là rõ ràng, nhưng vẫn không đủ tự tin để đánh giá chính xác, đã yêu cầu tổ chức khác giám định lại và có kết quả trái ngược với bản kết luận giám định lần đầu, dẫn đến “hoang mang”, lúng túng. Khi đã có xung đột trong kết luận, công bằng mà xét sự “hoang mang” của người tiến hành tô tụng chỉ đáng trách một phần, đó là họ chưa biết phân tích xem phương pháp giám định nào khoa học hơn, phương tiện giám định nào có độ hiện đại cao hơn, đáng tin cậy hơn và đối chiếu kết luận giám định này với các chứng cứ khác có trong hồ sơ để đỡ bị rối, bị lúng túng. Nhưng dù người tiến hành tố tụng, người Thẩm phán có khả năng phân biệt được chất lượng của các bản giám định, họ vẫn sẽ bị “rối” ít hoặc bị “rối” nhiều khi gặp sự xung đột trong kết luận giám định. Bởi lẽ trong nghề nghiệp, người tiến hành tố tụng nào cũng đã hơn một lần gặp các bản giám định mâu thuẫn nhau và có thể bị phủ định bỏi một kết luận giám định sau cùng của một Hội đồng giám định có uy tín tham gia; và họ cũng có thể đã gặp cả trường hợp người giám định được sử dụng công nghệ cao trong giám định nhưng do khâu bảo quản mẫu giám định không tốt, hoặc do thiếu cẩn trọng của Giám định viên dẫn đến kết luận giám định sai. Vì vậy, khi gặp xung đột trong kết luân giám định, mà đó lại là một vụ việc phức tạp, dư luận quan tâm nhiều thì hiếm có người tiến hành tố tụng nào lại không có một chút hoài nghi về kết luận giám định đó. Do đó, việc tạo niềm tin cho người tiến hành tố tụng, cho Thẩm phán trưóc hết thuộc về Giám định viên. Mỗi Giám định viên, mỗi cơ sở giám định phải tạo cho mình một "thương hiệu", một uy tín vững vàng, đồng thời phải thể hiện bản kết luận giám định của mình một cách khoa học, rõ ràng, dễ hiểu. Nếu Giám định viên có mặt tại phiên toà thì trình bày cả phương pháp, phương tiện, trang thiết bị dùng trong giám định với mức độ tiên tiến đến đâu; quy trình giám định như thế nào, đã tuân thủ đúng quy chuẩn chuyên môn chưa? Có làm chặt chẽ không? Từ đó xoá bỏ nghi ngờ, băn khoăn và mới thuyết phục được người tiến hành tố tụng tin vào kết luận giấm định.

Để có thể khai thác được các kết luận giám định có hiệu quả, đốĩ với người tiến hành tố tụng cũng phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, đồng thòi, trang bị cho mình những kiến thức tôì thiểu về giám định, nâng cao tinh thần trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp, biết khai thác hết các điều kiện pháp luật cho phép để nắm bắt vấn đề một cách khách quan, chính xác, ví dụ như khi người tiến hành tố tụng gặp xung đột trong kết luận giám định thì tại phiên toà cần yêu cầu các Giám định viên không chỉ phân tích, làm rõ nội dung kết luận mà còn phải yêu cầu các Giám định viên làm rõ rằng: họ dựa trên phương pháp, phương tiện giám định nào, tính khoa học của phương pháp giám định, trình độ công nghệ sử dụng trong quá trình giám định, quy trình lấy mẫu, thực hiện giám định, V.V.. Nếu có việc lấy mẫu giám định ỏ những vị trí khác nhau, ví dụ: cùng giám định gen, một mẫu giám định lấy từ tế bào gốc tóc, một mẫu giám định lấy từ tế bào niêm mạc miệng và các Giám định viên cho kết quả giám định khác nhau, mà bản thân người tiến hành tố tụng thấy không đủ năng lực, đánh giá hai mẫu đó là đồng nhất thì nên trưng cầu tư vấn của các nhà khoa học về lĩnh vực cần tìm hiểu để họ phân tích, củng cố thêm những kiến thức liên quan đến phương pháp, phương tiện giám định, phương pháp lấy mẫu giám định, tính đồng nhất hoặc không đồng nhất của các mẫu dùng khi giám định, để từ đó, có cơ sỏ vũng tin khi lựa chọn kết quả giám định nào đáng tin cậy hơn. Mặt khác, phải đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ với kết luận giám định để xem xét đánh giá mức độ phù hợp giữa chúng với nhau, từ đó tìm ra sự thật của vụ án nói chung và vụ việc dân sự nói riêng.