1.Quyền con người là giá trị chung của toàn nhân loại

Theo Chỉ thị s ố 12/CT/TW ngày 12-7-1992 c ủa Ban Bí th ư Trung ương Đảng: “Quyền con người là thành quả c ủa cu ộc đấu tranh lâu dài qua các th ời đại c ủa nhân dân lao động và các dân t ộc bị áp b ức trên th ế gi ới, và c ũng là thành quả c ủa cu ộc đấu tranh c ủa loài người làm ch ủ thiên nhiên; qua đó, quyền con người tr ở thành giá trị chung của nhân loại”. Về vấn đề này, trong bài phát biểu tại Hội nghị Thế giới về Quyền con người lần thứ hai tổ chức tại Viên (Áo), tháng 6 năm 1993, Phái đoàn Việt Nam c ũng khẳng định: Quyền con người là m ột phạm trù tổng h ợp, vừa là “chuẩn m ực tuyệt đối” mang tính phổ biến, vừa là “sản phẩm tổng hợp của một quá trình lịch s ử lâu dài”.

Quan điểm coi quyền con người là giá trị chung của toàn nhân loại về cơ bản cũng là quan điểm chung của cộng đồng quốc t ế. Cựu Tổng thư ký Liên hợp quốc B. Gali đã t ừng khẳng định: quy ền con người là ngôn ng ữ chung c ủa nhân loại. Quan điểm này c ũng được gián ti ếp phản ánh trong hệ th ống văn kiện pháp lý về quyền con người do Liên hợp quốc và các tổ chức liên chính ph ủ khác thông qua từ trước tới nay, thể hiện ở việc xác định tính phổ biến (universal) của quyền con người, theo đó, quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại, không có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì như về chủng tộc, dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ tuổi, thành phần xuất thân...

2.Trong xã hội có phân chia giai cấp, khái niệm quyền con người mang tính giai cấp

Theo Chỉ thị số 12/CT/TW ngày 12-7-1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng: "Trong xã hội có phân chia giai cấp đối kháng, khái niệm quyền con người mang tính giai cấp sâu sắc"1. Cũng liên quan đến vấn đề này, Chỉ thị số 41/2004/CT-TTg ngày 02-12-2004 của Thủ tướng Chính phủ khẳng định: “…cuộc đấu tranh trên vấn đề quyền con người là cuộc đấu tranh mang tính giai cấp sâu sắc, sẽ diễn ra liên tục, lâu dài và quyết liệt”

 Liên quan đến vấn đề trên, nhiều nhà nghiên cứu về quyền con người trên thế giới cho rằng, mặc dù xét về bản chất, quyền con người là những giá trị chung của toàn nhân loại, là sự kết tinh của những giá trị văn hóa tốt đẹp nhất của tất cả các dân tộc sau một quá trình phát triển lịch sử lâu dài, song vấn đề quyền con người đã luôn mang tính chính trị và bị chính trị hóa. Do đó, việc giải thích và áp dụng quyền con người thường thể hiện rất rõ sự khác biệt về ý thức hệ. Cụ thể, các nước tư bản thường nhấn mạnh và đôi khi cực đoan hóa các quyền dân sự, chính trị của cá nhân, trong khi khối các nước xã hội chủ nghĩa trước đây thường đề cao các quyền tập thể và các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, trong khi có lúc coi nhẹ các quyền cá nhân và các quyền dân sự, chính trị.

3. Quyền con người vừa có tính phổ biến, vừa có tính đặc thù

Quyền con người vừa có tính phổ biến, vừa có tính đặc thù, phụ thuộc vào truyền thống, đặc điểm và trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của mỗi quốc gia Theo Chỉ thị số 12 của Ban Bí thư Trung ương Đảng: Quyền con người luôn luôn gắn liền với lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hoá của đất nước. Do vậy, không thể áp đặt hoặc sao chép máy móc các tiêu chuẩn, mô thức của nước này cho nước khác1. Sách trắng về thành tựu quyền con người của Việt Nam cũng khẳng định: “…quyền con người vừa mang tính phổ biến, thể hiện khát vọng chung của nhân loại, được ghi trong Hiến chương của Liên hợp quốc, vừa có tính đặc thù đối với từng xã hội và cộng đồng”, do đó: “…khi tiếp cận và xử lý vấn đề quyền con người cần kết hợp hài hòa các chuẩn mực, nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế với những điều kiện đặc thù về lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội, các giá trị văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán của mỗi quốc gia và khu vực. Không một nước nào có quyền áp đặt mô hình chính trị, kinh tế, văn hoá của mình cho một quốc gia khác”

Về vấn đề trên, C.Mác – người sáng lập phong trào cộng sản quốc tế - từng viết: "Quyền không bao giờ có thể ở mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế quyết định"4.78 Ở phạm vi khu vực, một số nhà chính trị của các nước châu Á như Lý Quang Diệu (cựu Thủ tướng Singapo), Ali Alatas (cựu bộ trưởng ngoại giao Inđônêxia), Mahathir Mohamad (cựu Thủ tướng Malaixia)… cũng từng cổ vũ cho quan điểm về tính đặc thù của quyền con người qua việc đề xướng lý luận về những giá trị châu Á (Asia values) mà nội dung chủ yếu cho rằng, do những đặc thù về văn hóa và lịch sử, châu Á cần có những cách thức và tiêu chuẩn riêng trong vấn đề quyền con người chứ không thể và không nên theo những giá trị dân chủ, nhân quyền được cổ vũ bởi các nước phương Tây.

4. Quyền con người và quyền dân tộc cơ bản là thống nhất

Sách trắng về thành tựu quyền con người của Việt Nam khẳng định: “...quyền thiêng liêng, cơ bản nhất của con người là quyền được sống trong độc lập, tự do, quyền được tự quyết định vận mệnh của mình”

Quan điểm kể trên xuất phát từ thực tế là trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước, dân tộc Việt Nam đã nhiều lần bị các thế lực nước ngoài đô hộ và phải gánh chịu những hy sinh to lớn trong những cuộc đấu tranh b ất khu ất, kiên cường qua nhiều th ế kỷ để giành độc lập dân t ộc và t ự do c ủa T ổ qu ốc. Chính vì vậy, người dân Việt Nam tin rằng, nước m ất độc lập thì không thể có cá nhân t ự do, hay nh ững "vong qu ốc nô" thì không thể có quyền con người. Để giành quyền con người cho m ỗi cá nhân thì phải giải phóng dân t ộc kh ỏi áp b ức ngoại bang và bảo vệ quyền t ự quy ết c ủa dân t ộc. Th ực t ế cho th ấy, trước năm 1945, trong b ối cảnh m ột nước thu ộc địa, n ửa phong ki ến, người dân Việt Nam không được hưởng các quyền con người, quyền công dân. Chỉ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam ra đời, địa vị c ủa người dân Việt Nam m ới được thay đổi t ừ người nô lệ tr ở thành ch ủ nhân c ủa m ột qu ốc gia độc lập, các quyền công dân c ủa người Việt Nam lần đầu tiên được quy định trong Hi ến pháp và pháp luật. Nh ư th ế, quyền con người của người dân Việt Nam gắn liền v ới các quyền dân t ộc c ơ bản c ủa dân tộc Việt Nam.

Liên quan đến  vấn đề trên, ở cấp độ quốc tế, quyền tự quy ết dân tộc đã được khẳng định trong Hiến chương Liên hợp quốc và tại Điều 1 của cả hai Công ước qu ốc tế cơ bản nh ất của Liên hợp quốc về quyền con người là ICCPR và ICESCR. Năm 1960, Đại h ội đồng Liên h ợp quốc đã thông qua Tuyên bố về trao trả độc lập cho các nước và dân tộc thuộc địa, trong đó khẳng định quyền tự quy ết dân t ộc là m ột trong nh ững quyền con người cơ bản.

5.Quyền con người có nguồn gốc tự nhiên song phải được pháp luật quy định

Cương lĩnh xây d ựng đất nước trong th ời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã h ội năm 1991 c ủa Đảng C ộng sản Việt Nam khẳng định: "Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công dân và quyền con người…" Điều này có nghĩa là để được hiện th ực hóa trên th ực t ế, quyền con người, quyền công dân phải được quy định trong pháp luật. Ở đây, pháp luật vừa là phương tiện để ghi nhận, v ừa là công c ụ để hiện thực hóa và bảo vệ các quyền tự nhiên của con người. Thông qua pháp luật, không chỉ các quyền con người, quyền công dân mà cả những nghĩa vụ c ủa nh ững chủ thể có liên quan được xác lập, tạo thành khuôn kh ổ pháp lý cho việc tôn trọng, th ực hiện và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân trên th ực t ế. Trên th ế gi ới, việc pháp điển hóa các quyền t ự nhiên thành các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về quyền con người diễn ra m ột cách có hệ th ống kể từ khi Liên h ợp qu ốc ra đời. Cho đến ngày nay, hệ th ống các văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người đã bao gồm hàng trăm văn kiện, kể cả các văn kiện có hiệu l ực toàn cầu và các văn kiện có hiệu lực ở các khu vực. Quá trình pháp điển hóa nh ư vậy c ũng diễn ra ở hầu h ết các qu ốc gia. Ở góc độ nh ất định, việc pháp điển hóa các quyền con người vào pháp luật quốc tế và quốc gia cho th ấy s ự th ống nh ất về nhận th ức của c ộng đồng quốc tế về vai trò và tầm quan tr ọng c ủa pháp luật v ới việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người.

6 .Quyền không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm

Theo Chỉ thị số 12/CT/TW ngày 12-7-1992 c ủa Ban Bí thư Trung ương Đảng: “Quyền dân chủ, tự do của m ỗi cá nhân không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. Dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, pháp luật. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm ch ủ của nhân dân, đồng th ời th ực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích Tổ quốc, của nhân dân”. Sách trắng về thành t ựu về quyền con người của Việt Nam c ũng khẳng định: “…các quyền và tự do của mỗi cá nhân chỉ có thể được bảo đảm và phát huy trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích chung của dân tộc và cộng đồng; quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ đối với xã hội”.

Về vấn đề trên, trong “ Điều lệ tạm th ời của H ội liên hiệp công nhân quốc tế năm 1864”, C.Mác đã chỉ rõ sự th ống nh ất biện ch ứng gi ữa quyền và nghĩa vụ của con người: “Không có quyền l ợi nào mà không có nghĩa vụ, không có nghĩa vụ nào mà không có quyền l ợi” . Trong luật nhân quyền quốc tế, khoản 1 Điều 29 UDHR nêu rõ rằng: “Tất cả mọi người đều có những nghĩa vụ với cộng đồng mà ở đó nhân cách của bản thân họ có thể phát triển m ột cách t ự do và đầy đủ”. Theo khoản 2 Điều này: “Khi hưởng th ụ các quyền và t ự do c ủa mình, m ọi người chỉ phải tuân th ủ nh ững hạn ch ế do luật định, nhằm m ục đích bảo đảm s ự công nhận và tôn tr ọng thích đáng đối v ới các quyền và t ự do c ủa người khác c ũng nh ư nhằm đáp ứng nh ững yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật t ự công c ộng và phúc l ợi chung trong m ột xã h ội dân ch ủ”. Tuyên ngôn về quyền và trách nhiệm c ủa các cá nhân, các nhóm và các t ổ ch ức xã h ội được Đại h ội đồng Liên h ợp qu ốc thông qua năm 1998 ( Điều 17) c ũng nêu rằng: “Trong khi th ực hiện các quyền và t ự do trong Tuyên ngôn này, m ọi người phải chịu nh ững gi ới hạn nh ất định theo nghĩa vụ qu ốc t ế và do pháp luật quy định vì m ục đích bảo đảm việc công nhận và tôn tr ọng các quyền và t ự do c ủa người khác và đáp ứng nh ững đòi h ỏi c ủa đạo đức, trật t ự công c ộng và phúc l ợi chung trong m ột xã h ội dân ch ủ”.