Nội dung được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Dân sự của Công ty luật Minh Khuê

>> Luật sư tư vấn pháp luật Dân sự, gọi: 1900 6162

1. Quyền được chăm sóc y tế là gì?

“Quyền được chăm sóc sức khỏe không có nghĩa là quyền được khỏe mạnh, hay là các chính phủ nghèo phải thiết lập các dịch vụ y tế đắt tiền mà họ không có nguồn lực hỗ trợ. Nhưng nó yêu cầu chính phủ, và các cơ quan có thẩm quyền thực hiện các chính sách và chương trình hành động nhằm tạo ra các dịch vụ y tế sẵn có và mọi người có thể tiếp cận được trong thời gian ngắn nhất có thể. Để đảm bảo rằng có thể thực hiện được điều này là một thách thức cho cả cộng đồng quyền con người và các chuyên viên y tế.”

Quyền có được trạng thái sức khỏe tốt nhất có thể được (ở đây xem là “quyền được chăm sóc sức khỏe”) được đề cập tới lần đầu tiên trong hiến pháp của tổ chức Y tế thế giới (1946) và sau đó được nêu ra trong tuyên bố Alma Ata năm 1978 và trong Tuyên ngôn Y tế thế giới phê chuẩn bởi đại hội đồng Y tế thế giới năm 1998.

Điều này được ủng hộ mạnh mẽ trong nhiều tài liệu nhân quyền khu vực cũng như quốc tế.

Quyền có được trạng thái sức khỏe tốt nhất có thể được trong luật nhân quyền quốc tế là quyền có được các điều kiện xã hội, các qui tắc, pháp luật, chế tài và một môi trường trợ giúp– mà có thể đảm bảo đạt được quyền này. Cách hiểu quyền này một cách chuẩn mực nhất được thảo luận trong điều 12 của ICESCR, đã được phê chuẩn bởi 145 nước (tính đến tháng 5 2002). Vào tháng 5 2000, ủy ban về quyền văn hóa, kinh tế, xã hội, nơi kiểm soát công ước, phê chuẩn một Tuyên bố chung về quyền được chăm sóc sức khỏe. Tuyên bố chung này làm rõ nội dung và bản chất của quyền cá nhân và trách nhiệm nhà nước (các nước đã phê chuẩn). Tuyên bố chung này cho rằng quyền được chăm sóc sức khỏe có liên quan chặt chẽ và phụ thuộc vào sự thực hiện các quyền con người khác, bao gồm quyền có thực phẩm, nhà cửa, công việc, giáo dục, tham gia, hưởng thụ các thành tựu của áp dụng khoa học kỹ thuật, cuộc sống, không bị phân biệt, bình đẳng, ngăn cấm bạo lực, riêng tư, truy cập thông tin, và tự do tổ chức, hội họp, hoạt động.

Quyền được chăm sóc sức khỏe được thừa nhận ở một số các văn kiện quốc tế. Điều 25(1) của UDHR khẳng định rằng “mọi người có quyền được hưởng một mức sống phù hợp với sức khỏe của người đó và gia đình người đó, bao gồm thực phẩm, quần áo, nhà cửa, chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết khác”. ICESCR có điều mục toàn diện về quyền được chăm sóc sức khỏe trong luật nhân quyền quốc tế. Theo điều 12(1) của Hiệp ước, các chính phủ thừa nhận “quyền của mọi người được hưởng tình trạng sức khỏe tốt nhất có thể được về thể chất cũng như tinh thần”, trong khi điều 12(2) liệt kê ra một số “các bước chính phủ cần tiến hành“… để thực hiện đầy đủ quyền này”. Ngoài ra, quyền được chăm sóc sức khỏe được thừa nhận, không kể các mục khác, trong CERD, 1963, CEDAW, 1979 và CRC, 1989. Một vài văn kiện khu vực về nhân quyền cũng thừa nhận quyền được chăm sóc sức khỏe này, như Hiến chương xã hội châu Âu, 1961, Hiến chương châu Phi về con người và quyền con người, 1981 và Văn kiện bổ sung của Hiệp ước châu Mỹ về nhân quyền trong lĩnh vực Kinh tế văn hóa xã hội, 1988 (Văn kiện bổ xung có hiệu lực từ 1999). Tương tự như vậy, quyền được chăm sóc sức khỏe cũng được công bố bởi Ủy ban Nhân quyền và được củng cố thêm trong Tuyên ngôn Vienna và chương trình hành động, 1993 và các văn kiện quốc tế khác.

Ngoài ra, ủy ban coi quyền được chăm sóc sức khỏe như là một quyền chung, mở rộng không những ra vấn đề chăm sóc sức khỏe phù hợp và kịp thời mà còn ra các yếu tố quyết định sức khỏe tiềm ẩn, như tiếp cận với nước sạch và điều kiện vệ sinh phù hợp, việc cung cấp thực phẩm hợp lý, dinh dưỡng và nhà cửa, nghề nghiệp, môi trường an toàn cho sức khỏe, và tiếp cận với giáo dục, thông tin về các vấn đề liên quan tới sức khỏe, bao gồm sức khỏe sinh sản và sức khỏe giới tính.

2. Mối liên hệ giữa sức khỏe và nhân quyền là gì?

Có các mối liên hệ hữa cơ giữa sức khỏe và nhân quyền:

• Vi phạm hay thiếu chú ý tới vấn đề nhân quyền có thể gây ra các hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe

• Chính sách và các chương trình y tế có thể khuyến khích, quảng bá hoặc vi phạm quyền con nguời qua cách các chương trình này được xây dựng hay thực hiện;

• Có thể giảm sự tổn thương hoặc ảnh hưởng của tình trạng y tế không tốt bằng cách thực hiện các quyền con người như tôn trọng, bảo vệ, đáp ứng

3. Nguyên tắc không phân biệt đối xử liên quan tới vấn đề sức khỏe như thế nào?

Các nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội có xu hướng chịu phần không công bằng trong các vấn đề sức khỏe. Phân biệt đối xử công khai hay không công khai phá vỡ nguyên tắc cơ bản về nhân quyền và thường là nguyên nhân gốc rễ của tình trạng sức khỏe không tốt. Trong thực tế, phân biệt đối xử có thể lan sang các chương trình y tế không được định hướng đúng đắn, hợp lý và hạn chế việc tiếp cận với các dịch vụ y tế.

Việc cấm đoán phân biệt đối xử không có nghĩa là không nên thừa nhận những khác biệt, chỉ có sự điều trị khác nhau và không điều trị các ca bệnh như nhau một cách bình đẳng phải dựa trên mục tiêu và các tiêu chí phù hợp dùng để sửa đổi sự mất cân bằng trong xã hội.

Liên quan tới sức khỏe và vấn đề chăm sóc sức khỏe, vấn đề không phân biệt đã được bàn đến và có thể tóm tắt như bài trừ “bất kỳ sự phân biệt nào trong việc tiếp cận với các dịch vụ y tế và các yếu tố quyết định ngầm với sức khỏe, cũng như các phương tiện và quyền thu nhận, trên các vấn đề sắc tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính trị, vấn đề quốc gia, xã hội, tài sản, sinh đẻ, khuyết tật thể chất, tinh thần, tình trạng sức khỏe (bao gồm HIV/AIDS), định hướng giới tính, tình trạng công dân, chính trị, xã hội hay các vấn đề khác, mà có ý định hay có ảnh hưởng làm vô hiệu hay gây tác hại tới sự thụ hưởng công bằng quyền được chăm sóc sức khỏe.”

“Thực hành y tế công cộng chịu ảnh hưởng nặng nề từ vấn đề phân biệt đối xử không cố ý. Ví dụ, các hoạt động tiếp cận cộng đồng có thể mặc nhiên coi là tiếp cận tất cả cư dân một cách bình đẳng bằng một thông điệp duy nhất trên TV với ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi nhất; hay là công việc phân tích ‘quên’ không đưa vào các vấn đề sức khỏe chỉ xuất hiện với một số nhóm dân cư nhất định, như ung thư vú hay bệnh tế bào liềm; hay vấn đề ‘lờ đi’ năng lực phản hồi thực tế của những nhóm cư dân khác nhau, như khi đưa ra những cảnh báo về ngộ độc chì mà không quan tâm tới khả năng tài chính để đảm bảo thanh toán được chì. Thực ra, phân biệt đối xử không cố ý là rất phổ biến nên tất cả các chính sách hay chương trình y tế nên được coi là phân biệt cho tới khi có chứng minh cụ thể, nếu không sẽ đặt gánh nặng cho ngành y tế công cộng khẳng định và đảm bảo tôn trọng vấn đề nhân quyền.”

4. Đâu là những giá trị phụ thêm của nhân quyền trong lĩnh vực y tế?

Nói chung, nhân quyền mang lại lợi ích cho lĩnh vực y tế bằng cách trợ giúp:

+ Nhận biết rõ ràng tình trạng sức khỏe tốt nhất có thể được là “quyền con người” (ngược lại với hàng hóa hay dịch vụ với cách tiếp cận từ thiện);

+ Công cụ tăng cường thành quả y tế bằng cách sử dụng cách tiếp cận quyền con người vào vấn đề xây dựng, thực hiện, và lượng giá chương trình, chính sách y tế;

+ Một chiến lược “củng cố” trợ giúp chăm sóc sức khỏe, có sự tham gia tích cực, có ý nghĩa của các nhóm dễ tổn thương, nhóm khó khăn;

+ Một khung làm việc hiệu quả, mẫu hướng dẫn để nhậ biết, phân tích, và đáp ứng với các yếu tố quyết định tiềm tàng của sức khỏe;

+ Một tiêu chuẩn để đánh giá hoạt động của chính phủ trong vấn đề chăm sóc sức khỏe;

+ Tăng cường trách nhiệm của chính phủ trong chăm sóc sức khỏe;

+ Cơ sở quyền lực mạnh mẽ trong vấn đề ủng hộ và hợp tác với chính phủ; các tổ chức quốc tế, các viện tài chính quốc tế, và trong xây dựng mối quan hệ cộng tác với các tổ chức khác trong xã hội;

+ Các cơ chế quốc tế hiện hành để giám sát thực hiện quyền chăm sóc sức khỏe như là thực hiện nhân quyền;

+ Các tiêu chuẩn, quy phạm quốc tế đã được chấp nhận (ví dụ định nghĩa các khái niệm và các nhóm dân cư);

+ Các hướng dẫn kiên định cho chính phủ khi mà vấn đề nhân quyền được thực hiện trong tất cả các hoạt động của Liên hợp quốc;

5. Điều gì sẽ xảy ra nếu vấn đề bảo vệ việc chăm sóc sức khỏe làm hạn chế một số quyền con người?

Có một số quyền con người không thể hạn chế trong bất kỳ hoàn cảnh nào như không bị tra tấn, ngược đãi, không phải làm nô lệ, tự do suy nghĩ, tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Giới hạn trong các văn kiện nhân quyền quốc tế cho thấy nhu cầu cần hạn chế nhân quyền ở những thời điểm cụ thể.

Y tế công cộng nhiều khi có thể được chính phủ sử dụng như công cụ để hạn chế thực hành nhân quyền. Một nhân tố quan trọng quyết định cần thiết có sự bảo vệ khi các quyền bị hạn chế là cần đạt được các tiêu chí trong năm tiêu chí của nguyên tắc Siracusa. Thậm chí cả khi các trường hợp khi cho phép hạn chế phục vụ việc bảo vệ y tế công cộng, các hạn chế này cũng chỉ nên áp dụng trong một giai đoạn nhất định và cần lượng giá lại.

Can thiệp vào việc tự do đi lại khi áp dụng biện pháp cách ly trong các trường hợp bệnh truyền nhiễm nghiêm trọng, ví dụ như vi rút Ebola, thương hàn, tả, hay bệnh Lao chưa điều trị là các ví dụ áp dụng hạn chế quyền mà trong một số trường hợp cụ thể là cần thiết cho chăm sóc sức khỏe, và vì thế có thể coi là hợp pháp về luật nhân quyền quốc tế. Ngược lại, khi nhà nước hạn chế đi lại hay bỏ tù với người nhiễm HIV/AIDS, từ chối cho phép thầy thuốc điều trị cho người chống đối chính phủ, hay không cung cấp chủng ngừa các bệnh nhiễm trùng trong cộng đồng khi đó là an toàn quốc gia, hay yêu cầu của cộng đồng thì sẽ đối diện với việc phải giải thích về việc áp dụng các biện pháp nghiêm trọng đó.

6. Nhân quyền có ảnh hưởng gì tới thông tin y tế thực tiễn?

Quá trình xây dựng các quyền con người được quốc tế công nhận là quá trình dựa trên thực tế. Ví dụ như xây dựng tuyên ngôn về nhân quyền dân bản địa xuất phát từ thực tế là nhóm cư dân dễ bị tổn thương này thiếu sự thụ hưởng các quyền con người, bao gồm quyền tham gia chính trị, giáo dục và sức khỏe. Nói cách khác, các tiêu chuẩn, quy phạm về nhân quyền tự nó là những bằng chứng về những vấn đề nghiêm trọng và sự thừa nhận của các chính phủ về tầm quan trọng phải giải quyết các vấn đề này. Vì vậy, các tiêu chuẩn, quy phạm nhân quyền nên giúp cho việc thu thập bằng chứng, chỉ ra các số liệu cần thiết để giúp giải quyết các khó khăn, thách thức về y tế. Ví dụ các số liệu phân tách được dựa trên các chỉ số truyền thống có thể phát hiện phân biệt đối xử sắc tộc đối với người bản xứ hoặc các nhóm bộ lạc, mà sự phân biệt này được cho là nguyên nhân sâu xa của tình trạng nhóm sức khỏe không tốt của các nhóm người này. Tuy nhiên, vấn đề nhạy cảm chính trị mà giúp củng cố nhân quyền bằng cách bộc lộ cho biết tại sao các nhóm người khác nhau bị đối xử khác khau và bị đối xử khác khau như thế nào có thể ngăn trở việc sử dụng nhân quyền như là một công cụ thu thập thông tin.

Một khái niệm được chấp nhận khá rộng rãi là nhân quyền phải phù hợp với cách thức thu thập số liệu y tế. Điều này bao gồm phương pháp thu thập số liệu phải đảm bảo được

việc tôn trọng nhân quyền, như là tính riêng tư, sự tham gia hay không phân biệt. Thứ hai, các văn kiện quốc tế có thể có ích trong việc xác định các nhóm dân cư khác nhau. Ví dụ như Nghị quyết của Tổ chức lao động quốc tế về thổ dân và các bộ lạc tạo ra một cơ sở pháp lý cho việc xác định và phân biệt thổ dân và các cư dân bộ lạc với các nhóm cư dân khác.

Các cơ quan Liên hợp quốc phát triển các bộ chỉ số về chăm sóc sức khỏe, chỉ số về nhân quyền, và các chỉ số về phát triển con người để giúp hình thành lộ trình làm việc chung. Cần có sự điều phối để đảm bảo khung làm việc chung trong việc xây dựng, phát triển, sử dụng và đánh giá các chỉ số này. Nhóm làm việc của UNDG về Các chỉ số chung đánh giá các quốc gia đã phê chuẩn định nghĩa một chỉ số như là một biến số hay thước đo, cho biết các thông tin định tính hay định lượng nhưng có thể đo lường được. Nhân quyền được lồng ghép vào các chỉ số của CCA nhằm đạt mục đích xây dựng một bộ các chỉ số phát triển đơn giản, dùng để đánh giá “đây là gì” trên cơ sở giữa quyền với quyền.. Các chỉ số này không bao gồm tiêu chuẩn, mục đích hay trả lời một cách tuyệt đối “nên là gì?” hay “khi nào”, vì các chỉ số này được xây dựng trong quá trình tham gia làm việc với từng nước cụ thể. “Thông tin và các số liệu là những công cụ mạnh mẽ để xây dựng một môi trường làm việc trách nhiệm và thực hiện nhân quyền”

7. Ủng hộ vấn đề nhân quyền trợ giúp củng cố hệ thống y tế như thế nào?

Nhân quyền tạo ra một tiêu chuẩn để lượng giá các chương trình và chính sách y tế hiện có, bao gồm cả làm rõ việc đối xử khác biệt với các nhóm cư dân khác nhau, ví dụ trong sự xuất hiện, tần xuất, và mức độ nghiêm trọng của bệnh, và đáp ứng của chính phủ. Các tiêu chuẩn và quy phạm của nhân quyền cũng tạo ra cơ sở vững chắc cho hệ thống y tế lập ưu tiên các nhu cầu chăm sóc y tế cho các nhóm cư dân dễ tổn thương, khó khăn. Nhân quyền vượt ra khỏi chủ nghĩa bình quân và tập trung vào các nhóm cư dân khó khăn, dễ tổn thương nhất trong xã hội (ví dụ thổ dân, cư dân các bộ lạc, dân tị nạn, dân di cư, dân tộc thiểu số, sắc tộc, tôn giáo thiểu số) cũng như thúc đẩy các quyền con người cụ thể hướng dẫn các chương trình, chính sách y tế, và các hoạt động trong hệ thống y tế (ví dụ quyền của những người bị ảnh hưởng bởi chính sách, chiến lược, tiêu chuẩn y tế tham gia vào các hoạt động thảo ra các chính sách, chiến lược, tiêu chuẩn y tế ảnh hưởng tới họ).

8. Nhân quyền được áp dụng vào phân tích tình hình chăm sóc sức khỏe ở các nước như thế nào?

Chú tâm hơn tới nhân quyền đầu tiên có thể mở rộng phạm vi phân tích tình hình chăm sóc sức khỏe ở các nước, sau đó kết quả là sẽ giúp nhận diện các đối tác mới. Các vấn đề mới cần quan tâm bao gồm việc xem xét các vấn đề y tế trong chương trình hành động nhân quyền quốc gia, và ngược lại, vấn đề nhân quyền trong chiến lược và chương trình hành động y tế quốc gia. Dựa vào trách nhiệm về nhân quyền có liên quan tới vấn đề y tế của chính phủ, cần đặt ra mục tiêu về y tế và nhân quyền trong các chính sách, kế hoạch nằm ngoài hệ thống y tế nhưng có ảnh hưởng lớn tới hoạt động của ngành y tế, như chính sách và kế hoạch dinh dưỡng quốc gia. Do có sự ưu tiên cho các nhóm cư dân dễ tổn thương, nên cần lưu ý việc xây dựng chính sách, luật định có ảnh hưởng thế nào tới các nhóm cư dân này, cơ quan nào bảo vệ các quyền lợi của họ, và làm thế nào các phong trào xã hội đại diện cho họ. Cuối cùng, cần cân nhắc các báo cáo và tuyên bố của các cơ quan theo dõi nhân quyền Liên hợp quốc, và quan điểm của các tổ chức xã hội.

Có thể có ảnh hưởng thực tế ở cấp quốc gia với nhiều bộ ngành ngoài bộ Y tế như bộ Tư pháp và các cơ quan chịu trách nhiệm về nhân quyền (bao gồm cả các cơ quan hoạt động nhân quyền độc lập), các hoạt động về phụ nữ, trẻ em, giáo dục, xã hội, tài chính...Các cơ quan thuộc Liên hợp quốc, và các tổ chức liên chính phủ hoạt động về nhân quyền, các tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế về nhân quyền, tổ chức nhân quyền quốc gia, các viện nghiên cứu nhân quyền quốc gia, thanh tra, ủy ban nhân quyền quốc gia, các nhóm cố vấn và viện nghiên cứu nhân quyền cũng là những đối tác hiệu quả trong việc củng cố tình hình chăm sóc sức khỏe trên toàn cầu.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900 6162 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Luật Minh Khuê - Sưu tầm & biên tập