Mục lục bài viết
- 1. Khái niệm quyền lập pháp
- 2. Khái niệm quyền hành pháp
- 3. Khái niệm quyền tư pháp
- 4. Quy định về tam quyền phân lập ở Việt Nam
- 5. Sự phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp tại Việt Nam
- 6. Nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp tại Hiến pháp năm 2013
1. Khái niệm quyền lập pháp
Quyền lập pháp là một trong ba chức năng chính của nhà nước, song hành cùng quyền hành pháp và quyền tư pháp để tổng hợp thành quyền lực của nhà nước được quy định trong Hiến pháp năm 2013.
Cũng theo căn cứ tại Hiến pháp năm 2013 thì Quốc hội chính là cơ quan thực hiện quyền lập hiến cũng như quyền lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng, cốt yếu của đất nước.
Chính vì vậy, lập pháp được hiểu là quyền thuộc về toàn thể nhân dân, được trao cho hội nghị đại biểu nhân dân là Quốc hội.
Lập pháp là được hiểu theo quy định trên và trong Hiến pháp 2013 chính là một trong ba chức năng chính của nhà nước, song hành cùng các quyền như quyền hành pháp và quyền tư pháp để tổng hợp thành quyền lực của nhà nước. Chúng ta có thể hiểu và thấy mối quan hệ giữa quyền lực nhà nước với lập pháp chính là vừa làm Hiến pháp và vừa sửa đổi Hiến pháp, vừa làm luật và vừa sửa đổi luật. Cũng theo căn cứ Hiến pháp năm 2013 thì Quốc hội chính là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng, cốt yếu của đất nước. Chính vì vậy, lập pháp được hiểu quyền thuộc về toàn thể nhân dân, được trao cho hội nghị đại biểu nhân dân là Quốc hội.
2. Khái niệm quyền hành pháp
Hành pháp là cùng một trong ba chức năng chính của nhà nước, là quyền lập pháp và quyền tư pháp hợp thành tạo nên quyền lực nhà nước. Hành pháp chính là thi hành theo quy định tại hiến pháp, căn cứ theo hiến pháp để soạn thảo hoặc ban bố các quy định của luật và thực hiện theo quy định của luật. Đại diện cho hành pháp là Chính phủ, người đứng đầu là Tổng thống/Chủ tịch nước. Chính vì vậy, hành pháp được hiểu là việc thực hiện luật pháp đã được thiết lập thông qua cơ quan Chính phủ.
Quyền hành pháp là một trong ba chức năng chính của nhà nước, cùng quyền lập pháp và quyền tư pháp hợp thành tạo nên quyền lực nhà nước.
Hành pháp chính là việc thi hành theo quy định tại Hiến pháp, căn cứ theo Hiến pháp để soạn thảo ra hoặc ban bố các quy định của luật và thực hiện theo các quy định của luật.
Đại diện cho hành pháp sẽ là Chính phủ, người đứng đầu là Chủ tịch nước. Chính vì vậy, hành pháp được hiểu là việc thực hiện luật pháp đã được thiết lập thông qua cơ quan Chính phủ.
3. Khái niệm quyền tư pháp
Quyền tư pháp là quyền lực nhà nước với mục đích là để đảm bảo sự công tư công bằng của pháp luật, bảo vệ nền công lý, đảm bảo thực hiện tư pháp thì theo quy định pháp luật sẽ có các cơ quan tư pháp.
Tư pháp cũng chính là một trong ba chức năng chính của quyền lực nhà nước. Tư pháp là để mục đích trừng trị tội phạm cũng như giải quyết xung đột giữa các cá nhân.
Cơ quan tư pháp chính là hệ thống các tòa án để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết các tranh chấp, xung đột.
Tư pháp là để đảm bảo sự công tư công bằng của pháp luật, để nhằm mục đích bảo vệ nền công lý. Để đảm bảo thực hiện tư pháp thì theo quy định sẽ có các cơ quan tư pháp. Tư pháp cũng chính là một trong ba chức năng chính của nhà nước. Tư pháp là để mục đích trừng trị tội phạm và giải quyết xung đột giữa các cá nhân. Cơ quan tư pháp chính là hệ thống tòa án để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết các tranh chấp.
4. Quy định về tam quyền phân lập ở Việt Nam
Quy định tam quyền phân lập tại Việt Nam thể hiện về quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được giao cho các cơ quan khác nhau trong nhà nước chứ không tập trung cho một cơ quan nào cụ thể mà sẽ phân ra cho các cơ quan khác nhau: quyền lập pháp giao cho quốc hội, quyền hành pháp giao cho chính phủ, quyền tư pháp giao cho tòa án.
Tam quyền phân lập được hiểu là nhằm mục đích dùng quyền lực để thực hiện kiểm soát, cân bằng, khống chế và kiềm chế quyền lực giữa các cơ quan nhà nước. Quy định tam quyền phân lập được thể hiện cho ta thấy rõ và nó giúp ngăn ngừa được sự chuyên chế rất dễ phát sinh ở xã hội lạm quyền.
Như vậy, có thể hiểu các quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp phải hoạt động theo nguyên tắc độc lập, có điều kiện kiểm tra và giám sát lẫn nhau, tạo ra sự cân bằng giữa các quyền để đảm bảo được quyền lực nhà nước.
Theo quy định về mặt hình thức thì tại Việt Nam chính là đất nước có hệ thống tam quyền phân lập, gồm có Quốc hội, có Chính phủ, có Tòa án và cơ quan công tố.
Hệ thống quyền lực theo quy định của pháp luật có cơ cấu tổ chức hoàn thiện từ Trung ương đến các địa phương cấp huyện, quận cho tới cấp xã, phường.
5. Sự phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp tại Việt Nam
Qua 5 lần sửa đổi Hiến pháp từ Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung 2001, đến Hiến pháp năm 2013 hiện hành thì trong đó ta có thể thấy rõ về mối quan hệ trong việc phân quyền theo chiều ngang đã ngày càng được hoàn thiện và đi đến sự thống nhất từ cơ chế theo tập quyền sang cơ chế phân công, phối hợp rồi phân quyền, phân công, phối hợp và thực hiện việc kiểm soát quyền lực.
Hiến pháp đã khẳng định cụ thể về nguyên tắc phân công thực hiện quyền lực nhà nước, trong đó cũng quy định và ghi nhận chủ thể của mỗi nhánh quyền là nội dung cốt lõi của đạo luật cơ bản.
Với chức năng chính được ghi nhận thể hiện là quyền lực nhà nước, thì Hiến pháp cũng chính là văn bản chính thức nhân danh nhân dân thể hiện chức năng của Nhà nước trong phạm vi nhất định cho các thiết chế và được thể hiện trong nhiều trường hợp bằng quy định cụ thể bằng cách trao quyền.
Với cách quy định như vậy theo mô hình phân quyền theo cách thức cứng rắn hoặc cách thức mềm dẻo và phân quyền, Hiến pháp đã hình thành nên một mối quan hệ nhằm mục đích tương tác cũng như cơ chế kiểm soát quyền lực lẫn nhau để qua đó làm rõ mối quan hệ giữa ba nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Để phân công quyền lực, cần xác định vị trí, chức năng, phạm vi, giới hạn hoạt động, cách thức phối hợp, tương tác giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp vốn đặc trưng cho chức năng cơ bản của Nhà nước.