Mục lục bài viết
Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Dân sự của Công ty luật Minh Khuê
>> Luật sư tư vấn pháp luật Dân sự, gọi: 1900 6162
1. Cơ sở pháp lý
Từ điều 25 - 39 Mục 2 Chương III Bộ luật dân sự năm 2015
Điều 21 Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
2. Khái quát chung về quyền nhân thân
2.1. Khái niệm quyền nhân thân
Theo quy định trong Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 tại điều 21 có quy định như sau:
a. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình, có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn.
b. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín, và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái pháp luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng của người khác.
Theo quy định tại điều 25 Bộ luật Dân sự năm 2015, thì quyền nhân thân được quy định là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Tuy nhiên hiện nay còn có một số quan điểm khác về khái niệm quyền nhân thân cụ thể:
- Quan điểm thứ nhất tiếp cận quyền nhân thân dưới hai góc độ là góc độ chủ thể và góc độ khách thể.
+ Dưới góc độ chủ thể: Quyền nhân thân về dân sự được hiểu là quyền con người về dân sự gắn liền với mỗi cá nhân được thụ hưởng với tư cách là thành viên của cộng đồng kể từ thời điểm người đó được sinh ra và bằng các quyền đó, mỗi cá nhân được khẳng định địa vị pháp lý của mình trong giao lưu dân sự, do đó mỗi cá nhân đều có quyền nhân thân riêng và quyền này không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy, theo cách hiểu này, quyền nhân thân chính là quyền con người mà cá nhân đó được toàn quyền hưởng và toàn quyền tự định đoạt, có mối quan hệ hữu cơ với mỗi cá nhân kể từ thời điểm cá nhân đó được sinh ra và gắn liền với cá nhân trong suốt cuộc đời.
+ Dưới góc độ khách thể: Quyền nhân thân về dân sự của cá nhân được hiểu là chế định pháp luật bao gồm các quy định của pháp luật về các quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân để bảo đảm địa vị pháp lý cho mọi cá nhân, là cơ sở pháp lý để cá nhân thực hiện các quyền con người về dân sự trong sự bảo hộ của nhà nước và pháp luật. Theo cách hiểu này, quyền nhân thân chính là các điều luật quy định về quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, tạo cơ sở pháp lý để cá nhân thực hiện các quyền đó và được bảo vệ quyền khi có hành vi xâm phạm xảy ra.
Quan điểm thứ tư: Nhìn nhận quyền nhân thân theo hai vấn đề, đó là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân và không thể chuyển giao cho người khác. Quan điểm này đã được chuyển hóa vào nội dung quy định trong BLDS năm 2015.
Mạc dù các quan niệm trên đều có chung một số điểm sau. Quyền nhân thân là một bộ phận của quyền dân sự và quyền này thuộc về cá nhân. Quyền nhân thân luôn hướng tới những giá trị tinh thần không định giá được như quyền đối với họ tên; quyền được khai sinh; quyền được khai tử; quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền đối với hình ảnh cá nhân; quyền bí mật đời tư; quyền tác giả… Tất cả những quyền này liên quan mật thiết đến những nhu cầu cần có của một cá nhân sống trong xã hội và bất cứ ai cũng không được phép xâm phạm. Quyền nhân thân không thể chuyển giao cho người khác, nghĩa là quyền nhân thân của mỗi cá nhân chỉ do chính cá nhân đó có quyền thực hiện hoặc do người đại diện của họ thực hiện trong một số trường hợp do pháp luật quy định.
2.2. Đặc điểm của quyền nhân thân
Thứ nhất, quyền nhân thân liên quan đến đến một lợi ích tinh thần. Lợi ích tinh thần ở đây có thể hiểu là những giá trị tinh thần được pháp luật ghi nhận và được mọi người tôn trọng như: Danh dự, nhân phẩm, .... Nó cũng có thể là kết quả từ hoạt động lao động sáng rạo của con người như các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học nghiên cứu,... Lợi ích tinh thần là yếu tố quan trọng có tính tiền đề, chi phối quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự với những phương pháp điều chỉnh đặc trưng riêng.
Thứ hai, quyền nhân thân mang tính chất phi tài sản: Đối tượng của quyền nhân thân là một giá trị tinh thần, qua đó quyền nhân thân không được thể hiện bằng vật chất, không quy đổi được thành tiền và mang giá trị tinh thần. Giá trị tinh thần và tiền tệ không phải là những đại lượng tương đương và không thể trao đổi ngang giá. Do vậy, quyền nhân thân không thể bị định đoạt hay mang ra chuyển nhượng cho người khác. Một người không thể kê biên quyền nhân thân của con nợ. Pháp luật quy định cho mọi chủ thể đều bình đẳng về quyền nhân thân. Mỗi một chủ thể có những giá trị nhân thân khác nhau nhưng được pháp luật bảo vệ như nhau khi các giá trị đó bị xâm phạm.
Thứ ba, quyền nhân thân gắn liền với một chủ thể nhất định và không thể chuyển dịch. Mỗi một chủ thể mang một giá trị nhant hân đặc trưng vì vậy quyền nhân thân gắn liền với một chủ thể nhất định định. Mặc dù vậy, quyền nhân thân không bị phụ thuộc, chi phối bởi bất kỳ yếu tố khách quan nào như độ tuổi, trình độ, giới tính, tôn giáo, địa vị xã hội,….
Thứ tư, quyền nhân thân không thể chuyển giao cho người khác, điều này có nghĩa là mỗi cá nhân chỉ do chính cá nhân đó hoặc trong một số trường hợp do chủ thể khác được pháp luật quy định thực hiện. Quyền nhân thân không thể là đối tượng trong các giao dịch mua bán, trao đổi, tặng, cho,… Trên thực tế xuất hiện nhiều hợp đồng liên quan đến quyền nhân thân, ví dụ: một người mẫu ký hợp đồng với công ty quảng cáo về việc cho phép công ty đó sử dụng bức ảnh của mình để quảng cáo. Vậy, quyền nhân thân đối với hình ảnh của người mẫu trong trường hợp này có được xem là đối tượng chuyển dịch? Thực chất, đối tượng chuyển dịch trong trường hợp này chính là những bức ảnh của người mẫu đã được chụp mà không phải là quyền nhân thân đối với hình ảnh của người mẫu. Bởi, như đã phân tích ở trên, quyền nhân thân mang giá trị tinh thần, do đó, không thể định đoạt và chuyển giao cho người khác. Trong nghiên cứu mới đây về quyền nhân thân, có quan điểm phân loại quyền nhân thân thành quyền nhân thân cơ sở (hay còn gọi là quyền nhân thân gốc) và quyền nhân thân phái sinh. Quyền nhân thân cơ sở là quyền nhân thân theo đúng bản chất của nó, không thể chuyển nhượng. Quyền nhân thân phái sinh là quyền khai thác danh tiếng của một cá nhân với mục đích thương mại. Liên quan đến hình ảnh của cá nhân, quyền nhân thân đối với hình ảnh là quyền nhân thân cơ sở, còn quyền đối với từng bức ảnh cụ thể của cá nhân trong trường hợp ký hợp đồng với công ty quảng cáo nói trên là quyền nhân thân phái sinh.
3. Phân loại quyền nhân thân
Theo quan điểm truyền thống về quan hệ nhân thân trong pháp luật dân sự thì quyền nhân thân được chia thành 2 nhóm
+ Nhóm các quan hệ nhân thân gắn với tài sản: Là nhóm các quan hệ xuất phát từ các giá trị tinh thần ban đầu, các chủ thế sẽ được hưởng các lợi ích vật chất từ việc chuyển quyền đối với kết quả của hoạt động sáng tạo. Đây là những quan hệ nhân thân do cá nhân tạo ra từ việc tạo ra một giá trị tinh thần bằng nhân thân và gắn với tài sản và nó có thể chuyển giao cho người khác.
+ Nhóm các quan hệ nhân thân không gắn với tài sản: Là nhóm các quan hệ được Nhà nước quy định trong Bộ luật dân sự 2015 cho các cá nhân. Các quan hệ nhân thân không gắn với tài sản đó là các quan hệ nhân thân xuất phát từ giá trị tinh thần và các giá trị tinh thần này không có nội dung kinh tế và hoàn toàn không thể chuyển giao được.
- Theo đối tượng các quyền nhân thân thì quyền nhân thân được chia thành 5 nhóm:
+ Nhóm quyền các biệt hoá chủ thể
+ Nhóm các quyền liên quan đến thân thể của cá nhân
+ Nhóm các quyền liên quan đến giá trị tinh thần của chủ thể (Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; Quyền bí mật đời tư)
+ Nhóm các quyền liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình của cá nhân
+ Nhóm quyền của cá nhân đối với hình ảnh
- Các phương pháp bảo vệ quyền nhân thân
+ Tự mình cải chính: Là cho phép cá nhân trong trường hợp bị người khác xâm phạm đến quyền danh dự, nhân phẩm,.... Thì cá nhân có thể đính chính lại những thông tin sai lệch, không đúng với thực tế, hạn chế những hậu quả xấu về vật chất và tinh thần có thể xảy ra.
+ Yêu cầu người vi phạm, hoặc cơ quan tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi cải chính thông tin. Đây là biện pháp có hiệu quả hơn so với các biện pháp còn lại vì các cơ quan, tỏ chức có thẩm quyền sử dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để chấm dứt hành vi vi phạm.
+ Yêu cầu người vi phạm hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại khi cá nhân đó vi phạm quyền nhân thân gây thiệt hại về vật chất và tinh thần cho họ. Nếu người vi phạm không bồi thường thiệt hại thì cá nhân có quyền yêu cầu Toà án hoặc các cơ quan có thẩm quyền buộc người vi phạm phải bồi thường thiệt hại đã xảy ra.
Theo quy định của pháp luật thì cá nhân có thể sử dụng các biện pháp trên để bảo vệ chính bản thân mình và nhưng người có liên quan. Cá nhân cần lựa chọn cách giải quyết phù hợp để mang lại hiệu quả cao nhất.
4. Quy định của pháp luật dân sự về quyền nhân thân
Quyền thay đổi họ được quy định tại điều 27 BLDS năm 2015: Cá nhân có quyền thay đổi họ trong các trường hợp sau: Thay đổi họ cho con đẻ từ họ của cha đẻ sang họ của mẹ đẻ và ngược lại, thay đổi họ cho con từ cha đẻ hoặc mẹ đẻ sang họ của cha nuôi hoặc mẹ nuôi theo yêu cầu của bên nhận nuôi. Thay đổi họ của người bị lưu lạc đã tìm ra nguồn gốc huyết thống của mình. Thay đổi họ theo họ của vợ, họ của chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài để phù hợp với pháp luật của nước mà vợ, chồng người nước ngoài là công dân hoặc lấy lại họ trước khi thay đổi (đây là một trong những điểm mới được bổ sung trong BLDS 2015 nhằm giải quyết kịp thời những bất cập phát sinh từ đời sống xã hội). Thay đổi họ của con khi cha, mẹ thay đổi họ; trường hợp khác do pháp luật về hộ tịch quy định....Việc thay đổi họ cho người từ đủ 9 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó mới được phép đổi họ.
Quyền thay đổi tên (được quy định tại điều 28 BLDS 2015) cá nhân có quyền thay đổi tên trong các trường hợp sau: Thay đổi tên theo yêu cầu của người có tên mà việc sử dụng tên đó gây nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền, lợi ích hợp pháp của người đó, theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi về việc thay đổi tên cho con nuôi hoặc khi người con nuôi thôi làm con nuôi và người này hoặc cha đẻ, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại tên mà cha đẻ, mẹ đẻ đã đặt, thay đổi tên của người bị lưu lạc đã tìm ra nguồn gốc huyết thống của mình, thay đổi tên của vợ, chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài để phù hợp với pháp luật của nước mà vợ, chồng người nước ngoài là công dân hoặc lấy lại tên trước khi thay đổi,.... Và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Quyền xác định, xác định lại dân tộc (được quy định tại điều 29 BLDS 2015) cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ, nếu cha và mẹ thuộc 2 dân tộc khác nhau thì dân tộc của con sẽ được xác định theo sự thoả thuận giữa 2 người, nếu không có thoả thuận giữa cha đẻ và mẹ đẻ thì dân tộc của con sẽ được xác định dựa theo tập quán.
Theo quy định thì dân tộc của một cá nhân được xác định theo dân tộc của cha hoặc mẹ, trong trường hợp cha đẻ và mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì con sinh ra được xác định theo tập quán hoặc theo thoả thuận. Căn cứ xác định dân tộc theo tập quán hoặc theo thoả thuận được đặt ngang hàng nhau mà không có sự ưu tiên áp dụng trước, sẽ gây ra sự phức tạp nếu có tranh chấp liên quan đến viêc xác định lại dân tộc cho con trong những trường hợp sau này, khắc phục những điểm hạn chế đó, Điều 29 BLDS 2015 đã bổ sung thêm khoản 2 về việc xác định dân tộc đối với trẻ em được ghi nhận làm con nuôi và trẻ em bị bỏ rơi mà chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ. Trong trường hợp trẻ em bị bỏ rơi không xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và được nhận nuôi thì dân tộc của trẻ em đó sẽ được xác định theo dân tộc của cha nuôi hoặc mẹ nuôi sự vào sự thoả thuận của 2 người (nếu cha nuôi và mẹ nuôi khác dân tộc), trường hợp chỉ có cha nuôi hoặc mẹ nuôi thì dân tộc của con sẽ được xác định theo dân tộc của người đó. Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và chưa được nhận làm con nuôi thì được xác định dân tộc theo đề nghị của người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng trẻ em đó hoặc theo đề nghị của người đang tạm thời nuôi dưỡng trẻ em vào thời điểm đăng ký khai sinh cho trẻ em.
Quyền được khai sinh, khai tử (điều 30 BLDS 2015), cá nhân từ khi được sinh ra sẽ có quyền được khai sinh, cá nhân chết phải khai tử. Trẻ em sinh ra và sống được 24 giờ trở lên nếu chết sẽ được khai sinh và khai tử. Và ngược lại trẻ em sinh ra và sống dưới 24 giờ nếu chết thì không phải khai sinh và khai tử trừ trường hợp cha mẹ đẻ có nhu cầu thì mới khai sinh và khai tử.
Quyền đối với quốc tịch (điều 31 BLDS 2015), cá nhân có quyền có quốc tịch và việc xác định, thay đổi, nhập, thôi và trở lại quốc tịch Việt Nam được uy định trong Luật Quốc tịch Việt Nam. Quyền của người không quốc tịch cư trú, sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam được quy định theo pháp luật.
Quyền của cá nhân đối với hình ảnh (điều 32 BLDS 2015), cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình và việc sử dụng hình ảnh phải được sự đồng ý của người đó. BLDS năm 2015 đã bổ sung thêm một số nội dung mới như việc sử dung hình ảnh từ các hoạt động công cộng, hội nghị, hội thảo, nghệ thuật và các hoạt động khác không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh. Việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên liên quan có thoả thuận khác.
Quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể (được quy định tại điều 33 BLDS 2015). Cá nhân có quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe và không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật. Khi phát hiện người bị tai nạn, bệnh tật mà tính mạng bị đe dọa thì người phát hiện có trách nhiệm hoặc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có điều kiện cần thiết đưa ngay đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nơi gần nhất, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có trách nhiệm thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh.
Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín (quy định tại điều 34 BLDS 2015): Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình.
Quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác (quy định tại điều 35 BLDS 2015): Cá nhân có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống hoặc hiến mô, bộ phận cơ thể, hiến xác của mình sau khi chết vì mục đích chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu y học, dược học và các nghiên cứu khoa học khác. Cá nhân có quyền nhận mô, bộ phận cơ thể của người khác để chữa bệnh cho mình. Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, pháp nhân có thẩm quyền về nghiên cứu khoa học có quyền nhận bộ phận cơ thể người, lấy xác để chữa bệnh, thử nghiệm y học, dược học và các nghiên cứu khoa học khác.
Quyền xác định lại giới tính: Cá nhân có quyền xác định lại giới tính theo quy định của pháp luật. Việc xác định lại giới tính của một người được thực hiện trong trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ giới tính. Việc xác định lại giới tính được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Chuyển đổi giới tính: Đây là một trong những điểm nổi bật về quyền nhân thân của cá nhân trong BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005 chính là việc chuyển đổi giới tính. Điều 37 BLDS năm 2015 quy định: “Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan”. Việc quy định về việc chuyển đổi giới tính nhằm tạo cơ chế pháp lý chống lại việc phân biệt đối xử đối với những người chuyển giới, qua đó đảm bảo sự công bằng về địa vị pháp lý của họ đối với những cá nhân khác đối với pháp luật. Đồng thời thể hiện tính minh bạch trong việc thực hiện các quyền thừa kế, tài sản và các quyền nhân thân khác. Đây là một điểm tiến bộ của pháp luật nước ta về việc bảo vệ người chuyển đổi giới tính và quyền của người đồng tính, song giới.
Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình: Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đý, trừ trường hợp luật có quy định khác.
Quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình: Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn, quyền bình đẳng của vợ chồng, quyền xác định cha, mẹ, con, quyền được nhận làm con nuôi, quyền nuôi con nuôi và các quyền nhân thân khác trong quan hệ hôn nhân, quan hệ cha mẹ và con và quan hệ giữa các thành viên gia đình. Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha, mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha, mẹ của mình.
5. Quyền nhân thân trong HIến pháp
Quyền nhân thân ra đời là cơ sở pháp lý để bảo vệ cho cá nhân tồn tại với tư cách là một chủ thể độc lập trong cộng đồng thông qua việc cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp năm 2013 và quyền con người. Vì vậy, quyền nhân thân, quyền con người cũng được quy định trong Hiến pháp 2013 tại một số điều sau:
Điều 21 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận “mọi người có quyền sống....” Đây là quy định mới ghi nhận thể chế một quyền cơ bản, quyền tự nhiên của con người vừa phù hợp với Công ước quốc tế về quyền con người vừa khẳng định tính khởi thủy của quyền con người như là một sinh vật sống và tồn tại trong thế giới khách quan. Bên cạnh đó để thể hiện tính phù hợp hơn của tinh thần nhà nước pháp quyền, tiếp tục khẳng định vai trò của cơ quan tòa án cũng như khẳng định một trong những quyền của con người là được tòa án xét xử khi bị buộc tội, như vậy có thể hiểu rằng không một cơ quan nào khác được thực hiện quyền này nhằm đảm bảo tính công bằng công lý cho tất cả những người phạm tội và việc xét xử ấy cũng chỉ được xét xử bằng chính pháp luật và chỉ bằng pháp luật, họ có thể sử dụng sự trợ giúp pháp lý của người bào chữa để có thể “gỡ” tội cho chính mình: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định. Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm” điều 20 Hiến pháp 2013, trong điều này ghi nhận hai quyền cơ bản; quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác. Cùng với đó là các điều khoản khác quy định về quyền con người như điều 21 "mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư...." Điều 36 "nam nữ có quyền kết hôn, ly hôn..." Thể chế hoá tinh thần Hiếp pháp năm 2013 thì trong Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định khá cụ thể chi tiết các quyền nhân thân của mọi cá nhân trong đời sống dân sự. Để đảm bảo, bảo về quyền con người, quyền công dân ở nước ta bên cạnh nhiệm vụ nghiên cứu góp phần làm rõ những quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân thì chúng ta phải hoàn thiện tất cả các văn bản quy phạm pháp luật từ Luật, pháp lệnh đến các văn bản dưới luật.
6. Quy định của Công ước quốc tế về quyền nhân thân
Bên cạnh sự ghi nhân của pháp luật Việt Nam về quyền nhân thân thì các công ước và tuyên bố trên thế giới cũng ghi nhân các quyền nhân thân cơ bản như: Công ước quốc tế và các quyền Dân sự và Chính trị,... Theo công ước này một số quyền nhân thân được ghi nhận tại Phần III (từ điều 6 đến điều 27). Quyền toàn vẹn thân thể, tức là quyền được sống, không bị tra tấn và bị bắt làm nô lệ (được quy định tại các điều 6, 7,8). Quyền tự do cá nhân được hiểu theo nghĩa tự do di chuyển tự do tôn giáo, tự do lập hội và hội họp, tự do lập gia đình, quyền khai sinh và quyền bí mật đời tư các quyền trên được ghi nhận tại các điều 12,13,17-24...... Và các điều khoản khác được ghi nhận tại công ước.Ở một số các quyền trên thì yêu cầu một số điều cụ thể mà các quốc gia thành viên đó phải thực hiện.
Tuyên ngôn nhân quyền Quốc tế 1948: Tại tuyên ngôn này bên cạnh việc ghi nhận các quyền cơ bản của con người thì cũng ghi nhận các quyền nhân thân của cá nhân tại một số điều sau: Quyền được sống...(điều 3), quyền được đảm bảo về đời tư, gia đình, nhà ở......(điều 12), quyền kết hôn, ly hôn,...(điều16), và các điều khoản khác theo quy định của tuyên ngôn. Hiện nay quyền nhân thân của cá nhân đã trở thành một vấn đề thu hút sự chú ý của dư luận thế giới, một nhân tố không kém phần quan trọng trong các chương trình nghị sự và văn kiện của các Hội nghị quốc tế, các tổ chức quốc tế và khu vực cũng như các hiệp định song phương, đa phương.
Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900 6162 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Công ty luật Minh Khuê (Sưu tầm và biên tập)