1. Cơ sở pháp lý: 

- Hiệp định tự do hóa thương mại hàng hóa GATT năm 1994

- Hiệp định tự do hóa thương mại dịch vụ GATS của WTO

2. Khái quát về hai hiệp định: 

a. Hiệp định GATT 1994

GATT  1994 là một hiệp ước được ký kết vào ngày 30 tháng 10 năm 1947, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1948 nhằm điều hòa chính sách thuế quan giữa các nước ký kết. Sau chiến tranh thế giới thứ II Hoa Kì đã giúp thành lập GATT để đáp ứng mức thuế cao trong đại khủng hoảng những năm 1920-1930.

Trong khuôn khổ hợp tác đa phương, GATT là diễn đàn đàm phán. Trong 48 năm hoạt động, GATT trải qua 8 vòng đàm phán: vòng Giơnevơ năm 1947 đàm phán về thuế; vòng Annecy (năm 1949) đàm phán về thuế, vòng Torquay (1950- 1951) đàm

phán về thuế, vòng Giơnevơ (1955- 1956) đàm phán về thuế; vòng Dillon (1961- 4962) đàm phán về thuế; vòng Kennedy (1964- 4967) đàm phán về thuế và các biện pháp chống phá giá; vòng Tôkyô (1973-1979) đàm phán về thuế, các biện pháp phi thuế quan và các hiệp định khung; vòng Uruguay (1986-1994) đàm phán về thuế, các biện pháp phi thuế quan, các nguyên tác, các dịch vụ, các quyền sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp, dệt, may mặc, nông nghiệp và việc thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật  - Công ty luật Minh Khuê

b. Hiệp định GATS 

Hiệp định chung về thương mại dịch vụ hay còn gọi hiệp định GATS là một hệ thống các nguyên tắc, qui định pháp lí đa phương đã được thỏa thuận để áp dụng cho lĩnh vực thương mại dịch vụ. Dịch vụ là một thứ hàng hóa chủ yếu tồn tại dưới dạng phi vật chất như y tế, viễn thông, giáo dục,... do con người cung cấp. (Theo World Trade Organization - WTO).

Mặc dù đã tiến hành các cuộc đàm phán, thảo luận trong tất cả các lĩnh vực dịch vụ, nhưng GATS đã không đạt được thỏa thuận trong bốn vấn đề: Viễn thông cơ bản; vận tải hàng hải; dịch vụ tài chính; di chuyển sức lao động.

Thực tế có 6 vấn đề được thương lượng ngay sau khi WTO hoạt động chính thức: Trợ cấp; mua sắm công; các biện pháp tự vệ; dịch vụ chuyên ngành, tập trung chủ yếu vào vấn đề kế toán; điều kiện tiêu chuẩn cấp giấy phép; thương mại và môi trường.

Tại Hội nghị cấp Bộ trưởng lần thứ nhất tại Singapore tháng 12/1996, các bộ trưởng bày tỏ việc thực hiện những mục tiêu đã được thông qua nhằm thương lượng vấn đề mở cửa thị trường cho lĩnh vực dịch vụ tài chính vận tải, di chuyển sức lao động, viễn thông cơ bản. Tuy nhiên, quá trình thương lượng cho thấy còn rất nhiều khó khăn trong thương mại dịch vụ.

Những kết quả cần thiết trong lĩnh vực dịch vụ cần thiết phải kéo dài quá trình đàm phán sau thời hạn qui định, ví dụ thương lượng về dịch vụ vận tải biển đã bị hoãn lại vào năm 1996, mặc dù các nhà thương lượng đã có thể thỏa thuận với nhau về một số điểm. Thương lượng về vấn đề dịch vụ tài chính, mặc dù không có sự tham gia của Mỹ, cũng đã đạt được một hiệp định tạm thời.

Tuyên bố của Hội nghị Bộ trưởng nhằm đạt được mức độ tự do hóa cao hơn trong lĩnh vực dịch vụ trên cơ sở có đi có lại với sự linh hoạt hợp lí hơn cho vòng đàm phán tiếp theo, được tiến hành tháng 01/2000. Vì vậy, các bộ trưởng hy vọng đạt được một hiệp định với các điều khoản MFN.

Như vậy, các bộ trưởng đã chính thức tuyên bố các nước thành viên: 

- Đạt được Hiệp định về viễn thông cơ bản vào năm 1997;

- Nối lại thương lượng về dịch vụ tài chính vào tháng 4/1997 với mục đích đạt được những cam kết về mở cửa thị trường;

- Các vấn đề liên quan đến kế toán thuộc nhóm dịch vụ chuyên ngành;

- Cần thiết phải tiến hành các công việc phân tích liên quan đến các biện pháp tự vệ trong vấn đề mua sắm công về dịch vụ và trợ cấp.

Hiệp định GATS gồm ba trụ cột chủ yếu: Những điều khoản chung; danh mục cam kết sơ bộ về tự do hóa thương mại dịch vụ; các phụ lục liên quan đến những điều kiện cụ thể của từng lĩnh vực riêng biệt.

3. Điểm khác biệt của nguyên tắc MFN trong GATT  và GATS 

GATT

GATS

Nếu một quốc gia thành viên dành cho một quốc gia thành viên kia hưởng ưu đãi thuế quan hay những lợi ích đặc biệt nào đó thì cũng phải đồng thời áp dụng ngay lập tức và vô điều kiện ưu đãi này cho sản phẩm cùng loại của các quốc gia thành viên khác.

Nếu một quốc gia tạo điều kiện và ưu đãi cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ từ một quốc gia khác (kể cả nước không phải thành viên); thì cũng phải đối xử không kém thuận lợi hơn dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ tương tự từ bất kỳ quốc gia thành viên nào khác. Nghĩa vụ này được áp dụng kể cả trong trường hợp thành viên không có cam kết cụ thể về tiếp cận thị trường

Nguyên tắc MFN chỉ điều chỉnh các biện pháp có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc xuất nhập khẩu hàng hóa cũng như các biện pháp ảnh hưởng đến phân phối hàng trên thị trường nhập khẩu được liệt kê tại Điều I GATT

GATS không liệt kê các biện pháp ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ mà chỉ đề cập ngắn gọn “bất kỳ biện pháp nào thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định” đều bị chi phối bởi nguyên tắc đối xử MFN

Nguyên tắc MFN trong GATT chỉ áp dụng cho hàng hóa/ sản phẩm tương tự

Nguyên tắc MFN trong GATS bao gồm cả các dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài tương tự

GATT đặt ra các ngoại lệ chung, ví dụ ngoại lệ liên quan hội nhập kinh tế khu vực, ưu đãi dành cho các nước đang phát triển, ngoại lệ liên quan đến đạo đức công cộng, bảovệ cuộc sống và sức khoẻ của con người,… (Điều XX GATT), ngoại lệ đối với an ninh quốc gia (Điều XXI GATT),…

Ngoài các ngoại lệ chung, GATS cho phép các thành viên có thể đưa ra danh mục ngoại lệ đối với các cam kết MFN theo quy định tại Điều II, được áp dụng mềm dẻo hơn so với GATT. Điều khoản này là cần thiết trong một thỏa thuận về dịch vụ trong bối cảnh năm 1994 khi các quốc gia chưa sẵn sàng cam kết tự do hóa hoàn toàn thương mại dịch vụ tại Vòng đàm phán Uruguay. 

GATT không đưa ra định nghĩa về “sản phẩm tương tự”. Việc xác định dựa trên các án lệ của WTO.

Chưa có sự giải thích chính thức về các yếu tố xác định “dịch vụ tương tự”. 

4. Điểm khác biệt của nguyên tắc NT trong GATS và GATT 

GATT

GATS

   Nguyên tắc NT áp dụng với mọi hàng hóa nội địa hoặc nhập     khẩu. Tất cả các thành viên WTO đều phải tuân thủ.

Nguyên tắc không được áp dụng đối với tất cả các dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ mà chỉ được áp dụng trong các lĩnh vực mà các thành viên đã cam kết, trong giới hạn và điều kiện ghi nhận trong cam kết này. Cam kết về nguyên tắc NT của mỗi quốc gia khác nhau.

  GATT liệt kê các biện pháp chịu sự điều chỉnh của nguyên tắc NT      tại Điều III.

Điều XVII GATS chỉ quy định tổng thể “tất cả các biện pháp có tác động đến việc cung cấp dịch vụ”

   GATT buộc các thành viên phải tuân thủ, trừ các ngoại lệ chung     và ngoại lệ liên quan  Cung cấp các khoản tiền trợ cấp đối với nhà   sản xuất trong nước  (Điều III:8 GATT), Phân bổ thời gian chiếu       phim (Điều III:10 GATT), Mua sắm chính phủ

Ngoài các ngoại lệ, nguyên tắc trong GATS được áp dụng linh hoạt, cho phép các thành viên có thể đàm phán những cam kết về các biện pháp có tác động tới thương mại dịch vụ không được điều chỉnh bởi Điều XVI, XVII

     5. Điểm khác biệt của nguyên tắc mở cửa thị trường trong GATT và GATS

GATT

GATS

   Các thành viên phải không được áp dụng các biện pháp hạn chế số lượng ( Điều XI, Điều XIII GATT), thực hiện giảm hàng rào thuế quan, giảm dần và loại bỏ NTBs => Nguyên tắc mở cửa thị trường của GATT chủ yếu dựa trên việc cắt giảm thuế quan và hàng rào đối với hàng hóa.

Các thành viên phải dành cho các dịch vụ và những người cung cấp dịch vụ của bất kỳ thành viên nào sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử đã được quy định trong việc áp dụng các thể thức, giới hạn và các điều kiện thỏa thuận và nêu cụ thể trong danh sách cam kết đặc biệt của mình => Nguyên tắc mở cửa thị trường GATS khá phức tạp, chủ yếu dựa trên các cam kết của thành viên, chưa có các biện pháp cụ thể.

   GATT yêu cầu các quốc gia thực hiện các biện pháp   cần thiết theo các quy định chung để hàng hóa tiếp cận thị trường

GATS không hề có quy định dành cho người cung cấp dịch vụ quyền tiếp cận thị trường và tiến hành các hoạt động. Việc tiếp cận thị trường phải được đàm phán giữa các thành viên theo từng lĩnh vực và theo cách thức cung cấp dịch vụ. Mỗi thành viên chỉ phải dành quyền tiếp cận thị trường trong khuôn khổ đã được dự kiến trong danh sách các cam kết cụ thể của mình.

6. Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN)

Tối huệ quốc, viết tắt theo tiếng Anh là MFN (Most favoured nation), là nguyên tắc pháp lý quan trọng nhất của WTO. Tầm quan trọng đặc biệt của MFN được thể hiện ngay tại Điều I của Hiệp định CATT (mặc dù bản thân thuật ngữ “tối huệ quốc”không được sử dụng trong điều này)1. Nguyên tắc MFN được hiểu là nếu một nước dành cho một nước thành viên một sự đối xử ưu đãi nào đó thì nước này cũng sẽ phải dành sự ưu đãi đó cho tấtcả các nước thành viên khác. Thông thường nguyên tắc MFN được quy định trong các hiệp định thương mại song phương. Khi nguyên tắc MFN được áp dụng đa phương đối với tất cả các nước thành viên WTO thì cũng đồng nghĩa với nguyên tăc bình đẳng và không phân biệt đối xử vì tất cả các nước sẽ dành cho nhau sự “đối xử ưu đãi nhất”. Nguyên tắc MFN trong WTO không có tính chất áp dụng tuyệt đối. Hiệp định GATT 1947 quy định mỗi nước có quyền tuyên bố không áp dụng tất cả các điều khoản trong Hiệp định đối với một nước thành viên khác (Trường hợp Mỹ không áp dụng MFN đối với Cuba mặc dù Cuba là thành viên sáng lập GATT và WTO).

Điều I. 1 Hiệp định GATT quy định nghĩa vụ của mọi bên ký kết dành “ngay lập tức và không điều kiện” bất kỳ ưu đãi , ưu tiên, đặc quyền hoặc đặc miễn nào liên quan đến thuế quan và bất kỳ loại lệ phí nào mà bên ký kết đó áp dụng cho hoặc liên quan đến việc nhập khẩu, xuất khẩu hoặc cho việc chuyển tiền thanh toán quốc tế , hoặc liên quan đến phương pháp tính thuế quân và lệ phí hoặc liên quan đến tất cả các quy định và thủ tục đối với việc xuất và nhập khẩu một sản phẩm xuất xứ hoặc nhập khẩu sang một Bên ký kết cho một sản phẩm cùng loại xuất xứ hoặc nhập khẩu sang các Bên ký kết khác.

Nếu như ngày nay quy chế MFN đồng nghĩa với nguyên tắc bình đẳng thì trong lịch sử đã chỉ có một nhóm nhỏ các cường quốc phương Tây được hưởng quy chế “Tối huệ quốc”, thực sự có tính ưu đãi hơn các nước khác được đưa ra trong các hiệp định thương mại và hàng hải ký với các nước A’-Phi-Mỹ Latinh.

Nếu như nguyên tắc MFN trong GATT 1947 chỉ áp dụng đối với ‘hàng hoá’ thì trong WTO, nguyên tắc này đã được mở rộng sang thương mại dịch vụ (Điều 2 Hiệp định GATS), và sỏ hữu trí tuệ (Điều 4 Hiệp định TRIPS).

Mặc dù được coi là “hòn đá tảng “ trong hệ thống thương mại đa phương, Hiệp định GATT 1947 và WTO vẫn quy định một số ngoại lệ (exception) và miễn trừ (waiver) quan trọng đối với nguyên tắc MFN1. Ví dụ như Điều XXIV của GATT quy định các nước thành viên trong các hiệp định thương mại khu vực có thể dành cho nhau sự đối xử ưu đãi hơn mang tính chất phân biệt đối xử với các nước thứ ba, trái với nguyên tắc MFN. GATT 1947 cũng có hai miễn trừ về đối xử đặc biệt và ưu đãi hơn với các nước đang phát triển. Miễn trừ thứ nhất là Quyết định ngày 25-6-1971 của Đại hội đồng GATT về việc thiết lập “ Hệ thống ưu đãi phổ cập” (GSP) chỉ áp dụng cho hàng hoá xuất xứ từ những nước đang phát triển và châm phát triển. Trong khuôn khổ GSP, các nước phát triển có thể thiết lập số mức thuế ưu đãi hoặc miễn thuế quan cho một sônhóm mặt hàng có xuất xứ từ các nước đang phát triển và chậm phát triển và không có nghĩa vụ phải áp dụng những mức thuế quan ưu đãi đó cho các nước phát triển theo nguyên tắc MFN. Miễn trừ thứ hai là Quyết định ngày 26-11-1971 của Đại hội đồng GATT về ‘Đàm phán thương mại giữa các nước đang phát triển”, cho phép các nước này có quyền đàm phán, ký kết những hiệp định thương mại dành cho nhau những ưu đãi hơn về thuế quan và không có nghĩa vụ phải áp dụng cho hàng hoá đến từ các nước phát triển. Trên cơ sở Quyết định này, Hiệp địnhvề “Hệ thống ưu đãi thương mạitoàn cầu giữa các nước đang phát triển ” (Global System of Trade Preferences among Developing Countries – GSPT) đã được ký năm 1989.

7. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia

Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (National Treatment – NT), quy định tại Điều III Hiệp định GATT, Điều 17 GATS và Điều 3 TRIPS. Nguyên tắc NT được hiểu là hàng hóa nhập khẩu, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài phải được đối xử không kém thuận lợi hơn so với hàng hoá cùng loại trong nước. Trong khuôn khổ WTO, nguyên tắc NT chỉ áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ, các quyền sở hữu trí tuệ, chưa áp dụng đối với cá nhân và pháp nhân. Phạm vi áp dụng của nguyên tắc NT đối với hàng hoá, dịch vụ và sở hữu trí tuệ có khác nhau. Đối với hàng hoávà sở hữu trí tuệ, việc áp dụng nguyên tắc NT là một nghĩa vụ chung (general obligation), có nghĩa là hàng hoá và quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài sau khi đã đóng thuế quan hoặc được đăng ký bảo vệ hợp pháp được đối xử bình đẳng như hàng hoá và quyền sở hữu trí tuệ trong nước đối với thuế và lệ phí nội địa, các quy định về mua, bán, phân phối vận chuyển . Đối với dịch vụ, nguyên tắc này chỉ áp dụng đối với những lĩnh vực, ngành nghề đã được mỗi nước đưa vào danh mục cam kết cụ thể của mình và mỗi nước có quyền đàm phán đưa ra những ngoại lệ (exception).

Các nước, về nguyên tắc, không được áp dụng những hạn chế số lượng nhập khẩu và xuất khẩu, trừ những ngoại lệ được quy định rõ ràng trong các Hiệp định của WTO, cụ thể, đó là các trường hợp: mất cân đối cán cân thanh toán (Điều XII và XVIII.b) ; nhằm mục đích bảo vệ ngành công nghiệp non trẻ trong nước (Điều XVIII.c); bảo vệ ngành sản xuất trong nước chống lại sự gia tăng đột ngột về nhập khẩu hoặc để đối phó với sự khan hiếm một mặt hàng trên thị trường quốc gia do xuất khẩu quá nhiều (Điều XIX); vì lý do sức khoẻ và vệ sinh (Điều XX) và vì lý do an ninh quốc gia (Điều XXI).

Một trong những ngoại lệ quan trong đối với nguyên tắc đãi ngộ quốc gia là vấn đề trợ giá cho sản xuất hoặc xuất hay nhập khẩu. Vấn đề này được quy định lần đầu tại Điều VI và Điều XVI Hiệp định GATT 1947 và sau này được điều chỉnh trong thoả thuận vòng Tôkyô 1979 và hiện nay trong Thoả thuận Vòng đàm phán U ruguay về trợ cấp và thuế đối kháng, viết tắt theo tiếng Anh là SCM. Thoả thuận SCM có một điểm khác biệt lớn so với GATT 1947 và thoả thuận Tôkyô ở chỗ nó được áp dụng cho cả các nước phát triển và đang phát triển. Hiệp định mới về trợ giá phân chia các loại trợ giá làm 3 loại : loại “xanh”; loại “vàng” và loại “đỏ” theo nguyên tắc “đèn hiệu giao thông” (traffic lights).

Riêng về vấn đề hạn chế số lượng đối với hàng dệt may được quy định trong Hiệp định đa sợi (MFA) và hiện nay được thay thế bởi Hiệp định về hàng dệt may của Vòng đàm phán U ruguay (ATC). Hiệp định ATC đã chấm dứt 30 năm các nước phát triển phân biệt đối xử đối với hàng dệt may của các nước đang phát triển. Các nước phát triển sẽ có một thời gian chuyển tiếp là 10 năm để bãi bỏ chế độ hạn ngạch về số lượng hiện hành. Điều I của Hiệp định ATC cũng quy định điều khoản cứu xét đặc biệt đối với một số nhóm nước; ví dụ như các nước cung cấp nhỏ, các nước mới bước vào thị trường (new entrants), các nước chậm phát triển nhất, các nước đã ký hiệp định MFA từ 1986 cũng như các nước xuất khẩu bông.

Việc áp dụng quy chế đãi ngộ quốc gia trên thực tế đã gây ra rất nhiều tranh chấp giữa các bên ký kết GATT/WTO bởi một lý do dễ hiểu là nếu các nước dễ chấp nhận nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với các nước thứ 3 thì nước nào cũng muốn dành một sự bảo hộ nhất định đối với sản phẩm nội địa. Mục tiêu chính của nguyên tắc đãi ngộ quốc gia là tạo ra những điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá nội địa cùng loại. Trong vụ Vênêxuêla kiện Mỹ về thuế môi trường đối với xăng dầu, Bồi thẩm đoàn của GATT đã khẳng định lại.

Điều III. 2 Hiệp định GATT quy định nghĩa vụ của các bên ký kết tạo ra những điều kiện cạnh tranh bình đẳng cho cả hàng hoá nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước. Trong vụ kiện khác mà Mỹ liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia, Bồi thẩm đoàn của GATT đã khẳng định lại nguyên tắc việc áp dụng thuế nội địa, luật và quy định về mua bán vận chuyển, phân phối và sử dụng hàng hoá không được mang tính chất bảo hộ hàng hoá sản xuất trong nước.

Về vấn đề “doanh nghiệp nhà nước độc quyền thương mại” , Hiệp định không cấm các bên ký kết thành lập hoặc duy trì những doanh nghiệp nhà nước kiểu như vậy nhưng phải đảm bảo nguyên tắc đãi ngộ quốc gia vẫn được áp dụng đối với những doanh nghiệp này. Trong vụ Mỹ kiện Thái Lan về những hạn chế số lượng và tăng thuế tiêu thụ đánh vào thuốc lá điếu nhập khẩu, nhóm chuyên gia của GATT đã quyết định rằng chính phủ Thái Lan có quyền thành lập “Thai Tobacco Monopoly” là công ty của nhà nước độc quyền trong lĩnh vực nhập khẩu và phân phối thuốc lá ở Thái lan và có quyền sử dụng công ty này để điều chỉnh giá và hệ thống bán lẻ thuốc lá. Tuy nhiên, ngựoc lại,Thái Lan cũng có nghĩa vụ theo đãi ngộ quốc gia không được đối xử với thuốc lá nhập khẩu kém ưu đãi hơn so với thuốc lá sản xuất trong nước. Vì vậy, việc Thái lan hạn chế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất thuốc lá ngoại và tăng thuế tiêu thụ nội điạ căn cứ vào tỷ lệ “nội hoá” trong thuốc lá là vi phạm Điều III của GATT về đãi ngộ quốc gia. Bồi thẩm đoàn của GATT đồng thời cũng bác bỏ lập luận của Thái lan viện dẫn điều khoản cho phép hạn chế số lượng vì lý do sức khoẻ vì cho rằng mục tiêu thực sự của chính phủ Thái lan không phải là để hạn chế việc tiêu thụ thuốc lá nói chung (việc hạn chế nhập khẩu và tăng thuế không áp dụng đối với sợi và giấy để sản xuất thuốc lá nội địa) mà thực chất là nhằm bảo hộ ngành sản xuất thuốc lá của Thái lan.

Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia cùng với MFN là hai nguyên tắc nền tảng quan trọng nhất của hệ thương mại đa phương mà ý nghĩa thực sự là bảo đảm việc tuân thủ một cách nghiêm túc những cam kết về mở cửa thị trường mà tất cả các nước thành viên đã chấp nhận khi chính thức trở thành thành viên của WTO.

8. Nguyên tắc mở cửa thị trường

Nguyên tắc “mở cửa thị trường” hay còn gọi một cách hoa mỹ là “tiếp cận” thị trường (market access) thực chất là mở cửa thị trường cho hàng hoá, dịch vụ và đầu tư nước ngoài. Trong một hệ thống thương mại đa phương, khi tất cả các bên tham gia đều chấp nhận mở cửa thị trường của mình thì điều đó đồng nghĩa với việc tạo ra một hệ thống thương mại toàn cầu mở cửa.

Về mặt chính trị, “tiếp cận thị trường” thể hiện nguyên tắc tự do hoá thương mại của WTO. Về mặt pháp lý, “tiếp cận thị trường” thể hiện nghĩa vụ có tính chất ràng buộc thực hiện những cam kết về mở cửa thị trường mà nước này đã chấp thuận khi đàm phán ra nhập WTO.