Mục lục bài viết
1.Giai đoạn của luật cổ
Khái niệm pháp luật dân sự, được xây dựng trong luật cận đại và luật hiện đại Việt Nam, không tồn tại trong luật cổ. Các quy tắc viết có tác dụng điều chỉnh các quan hệ giữa cá nhân và cá nhân trong xã hội cổ thường nằm lẫn lộn trong các chương về hình sự, hành chính liên quan đến hôn nhân, gia đình và ruộng đất. Pháp luật trước thời Lê chỉ còn có thể được hình dung thông qua sách sử, các tài liệu chuyên môn về luật đều đã thất lạc hoặc bị tiêu hủy. Một số dữ kiện trong sách sử cho phép suy đoán về sự tồn tại của các quy tắc xử sự chung chi phối các quan hệ gia đình, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng. Mọi suy đoán đều không chắc chắn. Dưới thời Lê, pháp luật dân sự được xây dựng và hoàn thiện với sự quan tâm đặc biệt. Bộ Quốc triều hình luật đã dành hẳn hai chương - Hộ hôn và Điền sản - để nói không chỉ về hôn nhân, gia đình và ruộng đất, mà còn cả về chế độ tài sản của vợ, chồng, thừa kế, tặng cho và di chúc, hương hỏa, nghĩa vụ, hợp đồng,... không kể các quy định có liên quan đến quan hệ pháp luật dân sự nằm rải rác ở các chương khác hoặc trong các văn bản luật riêng lẻ mà không được đưa vào Bộ luật. Nói chung, mặc dù chịu ảnh hưởng của văn hóa pháp lý Trung Quốc, người làm luật thời Lê vẫn nhận ra những đặc điểm riêng của đời sống dân sự Việt Nam và đã xây dựng được nhiều quy tắc pháp lý thể hiện tính độc đáo của pháp luật dân sự Việt Nam, nhất là những quy tắc liên quan đến hôn nhân, chế độ tài sản của vợ, chồng và thừa kế. Đến thời Nguyễn, luật viết lại trở về với thân phận chư hầu của Trung Quốc. Nói riêng về luật dân sự, Bộ luật Gia Long hầu như chỉ lấy lại câu chữ của các quy định liên quan trong Bộ luật nhà Thanh. Thực ra, người làm luật nhà Thanh, cũng như người làm luật thời trước đó ở Trung Quốc, không có ý niệm gì về luật dân sự: đối với luật, ngoài các quan hệ trong nội bộ gia đình, con người chỉ có các quan hệ với quyền lực công cộng. Sao chép luật nhà Thanh, Bộ luật Gia Long giải quyết các vấn đề dân sự như là một phần của những vấn đề lớn hơn về gia đình, hành chính và hình sự. Trong thời gian áp dụng Bộ luật Gia Long, người làm luật thời Nguyễn có bổ sung một số quy định về dân sự trong các lĩnh vực thừa kế, nghĩa vụ và hợp đồng, hôn nhân và gia đình; nhưng đó chỉ là những bổ sung rất vụn vặt, không ảnh hưởng đến những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật này.
2. Giai đoạn của luật cận đại
Luật dân sự Việt Nam xây dựng theo kiểu Pháp Cùng với việc xây dựng và củng cố chế độ thực dân ở Việt Nam, người Pháp đã nỗ lực La tinh hóa hệ thống pháp luật Việt Nam. Nói riêng trong lĩnh vực dân sự, luật Việt Nam thời kỳ thuộc địa được xây dựng theo khuôn mẫu luật của Pháp, có cải biên cho phù hợp với bối cảnh kinh tế và xã hội của Việt Nam thời kỳ đó. Về luật viết, có một số văn bản đáng chú ý: dân luật giản yếu (1883) áp dụng tại Nam kỳ; Sắc lệnh ngày 21/7/1925 về chế độ điền thổ cũng áp dụng tại Nam Kỳ; BLDS Bắc (1931); BLDS Trung (1936, 1938, 1939); Sắc lệnh ngày 21/2/1921 về thương mại, áp dụng tại Bắc và Nam Kỳ; Bộ thương luật Trung (1942);... Theo kiểu Pháp, luật viết thường chỉ ghi nhận những quy phạm mang tính nguyên tắc và được bổ khuyết bằng các giải pháp được xây dựng trong học thuyết pháp lý và án lệ. Bên cạnh đó, tục lệ đóng vai trò của một nguồn quan trọng của luật, nhất là tại Nam Kỳ, nơi mà cho đến khi chấm dứt chế độ thuộc địa vẫn chưa có một BLDS hoàn chỉnh (dân luật giản yếu năm 1883 chỉ đề cập đến các vấn đề về nhân thân, tương ứng với quyền 1 BLDS Pháp, không đả động gì đến các quan hệ tài sản).
3. Giai đoạn của luật hiện đại
Người làm luật xã hội chủ nghĩa luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho việc xây dựng pháp luật dân sự. Tuy nhiên, do phải tập trung thì giờ và công sức, trí tuệ cho chiến tranh cũng như cho việc giải quyết các hậu quả của chiến tranh, người làm luật chỉ có thể đầu tư đúng mức cho luật học dân sự khoảng mươi năm trở lại đây.
Từ 1945 đến những năm 1980
Từ 1945 đến những năm 1980 Trong những năm đầu kể từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, người làm luật chấp nhận duy trì hiệu lực của hệ thống luật cũ trừ các quy định “trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa” (Sắc lệnh số 47 ngày 10/10/1945, Điều 12). Với chủ trương đó, gần như toàn bộ hệ thống pháp luật dân sự (lúc đó gọi là luật hộ) được xây dựng trong thời kỳ thuộc địa vẫn giữ nguyên giá trị. Đến năm 1950, trước yêu cầu cấp bách của việc xoá bỏ các tàn tích của chế độ phong kiến trong lĩnh vực dân sự, người làm luật, trong hoàn cảnh rất khắc nghiệt của cuộc kháng chiến chống Pháp, đã nỗ lực vượt qua mọi khó khăn để bắt tay vào việc xây dựng hệ thống pháp luật dân sự xã hội chủ nghĩa. Một trong những thành tựu đáng chú ý nhất của thời kỳ này là việc ban hành Sắc lệnh số 97 ngày 22/5/1950 sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật. Sắc lệnh ghi nhận một số nguyên tắc lớn liên quan đến nhân thân và tài sản: quyền nhận cha, mẹ, quyền tự do kết hôn, quyền bình đẳng của người phụ nữ so với nam giới, nguyên tắc bảo vệ kẻ yếu trong quan hệ hợp đồng, quyền thừa kế,... Pháp luật cũ không còn được dùng làm căn cứ cho việc xét xử của các toà án kể từ năm 1957 theo Chỉ thị số 772/TATC ngày 10/7/1957 của Toà án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, do chiến tranh và những khó khăn của thời kỳ đầu sau chiến tranh, giao lưu dân sự không phát triển; bởi vậy, từ đó cho đến những năm đầu thập niên 80, hầu như không có văn bản nào chứa đựng có hệ thống các quy định về dân sự được ban hành. Riêng toà án nhân dân tối cao, trong điều kiện quá thiếu công cụ để xử lý các tranh chấp liên quan đến việc thanh toán di sản (một loại giao dịch mà gần như bất kỳ người nào cũng có lúc phải xác lập), đã đúc kết các kinh nghiệm từ thực tiễn xét xử và tham khảo các giải pháp trong luật so sánh, để xây dựng một văn bản mang tính quy phạm về thừa kế áp dụng tạm (chủ yếu trong các toà án) trong lúc chờ đợi có luật viết.
4. Từ những năm 1980 đến nay
Với chính sách kinh tế thị trường, bắt đầu từ năm 1987, việc tích lũy của cải trong khu vực tư nhân được khuyến khích và, như là một hệ quả tất yếu, lưu thông dân sự phát triển nhanh. Nhằm kịp thời điều chỉnh các quan hệ tài sản càng lúc càng trở nên rất phong phú và đa dạng trong dân cư, Nhà nước đã xây dựng trong thời gian ngắn hàng loạt quy phạm pháp luật dân sự, được ghi nhận trong nhiều văn bản lập pháp và lập quy: Luật hôn nhân và gia đình năm 1986; Luật đất đai năm 1987; Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987; Luật quốc tịch năm 1988; các Nghị định số 27, 28, 29 ngày 9/3/1998 và số 170 ngày 14/11/1988 về kinh tế ngoài quốc doanh; các Nghị định số 85 ngày 13/5/1988, số 200 và 201 ngày 28/12/1988 về sở hữu công nghiệp; Pháp lệnh về chuyển giao công nghệ năm 1988; Pháp lệnh sở hữu công nghiệp năm 1989; Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989; Pháp lệnh thừa kế năm 1990; Pháp lệnh nhà ở và Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991; Luật đất đai năm 1993; Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả năm 1994;... Những kinh nghiệm từ việc áp dụng các văn bản nói trên đã được đúc kết; những nghiên cứu mang tính học thuật về di sản pháp luật dân sự Việt Nam, về tục lệ truyền thống, về luật so sánh,... cũng được thực hiện một cách nghiêm túc và khẩn trương, song song với việc áp dụng các văn bản này. Toàn bộ kết quả của những việc đó, cùng với các dự báo về khả năng phát triển của các quan hệ dân sự trong xã hội Việt Nam, đã đặt cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện dự án BLDS Việt Nam, được Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/6/1996. Có thể nói rằng BLDS 1995 là thành tựu lớn nhất của năm mươi năm xây dựng hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam hiện đại. Sau mười năm áp dụng BLDS 1995; đến ngày 14 tháng 6 năm 2005 Quốc hội đã thông qua Bộ luật dân sự 2005 (có hiệu lực từ ngày 01/01/06) trên cơ sở kế thừa những nguyên tắc và nội dung cơ bản của BLDS 1995. Tuy còn nhiều bất cập nhưng BLDS 2005 đã thể hiện rõ hơn nguyên tắc tôn trọng sự tự thoả thuận và tự chịu trách nhiệm giữa các chủ thể trong quan hệ dân sự, giảm bớt sự can thiệp hành chính của Nhà nước vào các quan hệ dân sự.
5.Quan hệ giữa luật viết và tục lệ
Ta biết rằng trong lĩnh vực dân sự, tục lệ được thừa nhận là một trong những nguồn của luật. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp luật viết phải được ưu tiên áp dụng; chỉ khi nào luật viết không đầy đủ hoặc không rõ nghĩa, thì tục lệ mới được sử dụng như một công cụ điều chỉnh bổ sung hoặc như một cách giải thích luật viết. Nguyên tắc này dẫn đến các hệ quả sau đây:
1 - Hệ quả thứ nhất: trong trường hợp tục lệ trái với luật viết, thì tục lệ phải bị loại bỏ - Luật viết ở đây phải là luật mệnh lệnh: luật bổ khuyết có thể bị tục lệ lấn át, một khi người giao dịch thường xuyên bày tỏ ý chí phù hợp với tục lệ. Về mặt lý thuyết, một khi người làm luật tuyên bố rằng một quy phạm nào đó phải được bắt buộc áp dụng và chủ thể quan hệ pháp luật không thể bày tỏ ý chí ngược lại, thì các tục lệ trái với quy phạm đó phải bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Tuy nhiên, cũng có trường hợp tục lệ trái với luật mệnh lệnh vẫn được duy trì và, sau một thời gian, lại đẩy luật mệnh lệnh vào tình trạng không hữu hiệu, cuối cùng, bị loại bỏ. Ví dụ: Luật đất đai năm 1987 nghiêm cấm việc mua bán, sang nhượng đất (Điều 5); nhưng người dân, theo thói quen, vẫn mua bán, sang nhượng đất mà Nhà nước không kiểm soát được; đến năm 1993, Luật đất đai mới thừa nhận rằng người sử dụng đất quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong khuôn khổ pháp luật.
2 - Hệ quả thứ hai: tục lệ có giá trị như luật viết, trong trường hợp được thừa nhận như một công cụ điều chỉnh bổ sung hoặc như một cách giải thích luật viết - “Có giá trị như luật viết” nghĩa là sự tôn trọng đối với tục lệ, nếu cần, cũng được bảo đảm bằng các biện pháp cưỡng chế của bộ máy Nhà nước.
Luật Minh Khuê (sưu tầm và biên tập)