Mục lục bài viết
1. Một số khái niệm
Khái niệm kháng nghị
Kháng nghị là hành vi tố tụng của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật nhằm phản đối toàn bộ hoặc một phần của bản án, quyết định của Tòa án.
Mục đích của kháng nghị là nhằm đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án được chính xác, kịp thời sửa chữa nếu có sai lầm xảy ra trong bản án, quyết định nhằm đảm bảo sự công bằng cho các chủ thể có liên quan đến bản án, quyết định của Tòa.
Kháng nghị là hoạt động áp dụng đối với những bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực thi hành hoặc đã có hiệu lực thi hành nhưng trong thời gian điều tra, truy tố, xét xử đã phát hiện sai sót, hay có những tình tiết mới có thể làm thay đổi nội dung bản án.
Hiện nay pháp luật quy định có 3 hình thức kháng nghị là: Kháng nghị phúc thẩm, kháng nghị Giám đốc thẩm và kháng nghị tái thẩm.
Mục đích của kháng nghị là nhằm đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án được chính xác, kịp thời sửa chữa nếu có sai lầm xảy ra trong bản án, quyết định nhằm đảm bảo sự công bằng cho các chủ thể có liên quan đến bản án, quyết định của Tòa.
Khái niệm phúc thẩm
Phúc thẩm là Xét lại vụ án, quyết định đã được tòa án cấp dưới xét xử sơ thẩm nhưng chưa có hiệu lực pháp luật mà bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
Phúc thẩm là một hoạt động tố tụng trong đó Tòa án cấp trên tiến hành kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định do Tòa án cấp sơ thẩm xử mà bị kháng cáo, kháng nghị.
2. Đối tượng của kháng nghị phúc thẩm hình sự
Căn cứ Điều 330, Điều 336 BLTTHS 2015 thì đối tượng của kháng nghị phúc thẩm hình sự là các bản án, quyết định hình sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể các quyết định sơ thẩm có thể bị kháng nghị bao gồm: Quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo, quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo và quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm theo quy định của Bộ luật này.
Ngoài ra, Điều 363, khoản 2 Điều 453 BLTTHS năm 2015 còn quy định các bản án, quyết định trong những trường hợp sau có thể bị kháng nghị phúc thẩm: Bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là tù giam hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng nghị hay đối với quyết định của Tòa án về việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh vẫn có hiệu lực thi hành mặc dù có kháng nghị.
3. Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự
Điều 336 BLTTHS năm 2015 quy định: “Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm”, đồng thời điểm k khoản 3 Điều 3 và điểm d khoản 3 Điều 4 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án khi phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật.
Theo Điều 41 BLTTHS năm 2015 thì người có thẩm quyền quyết định việc kháng nghị phúc thẩm là Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp. Điều 32 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự (ban hành kèm theo Quyết định số 960/2007/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao); Điều 36 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự (ban hành kèm theo Quyết định số 505/2017/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao) quy định: Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện có quyền kháng nghị đối với những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện; Viện trưởng hoặc Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao uỷ quyền cho Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm (nay là Viện kiểm sát nhân dân cấp cao) kháng nghị những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp tỉnh.
Khoản 4 Điều 2 Nghị quyết số 82/2014/QH13 ngày 24/11/2014 của Quốc hội về việc thi hành Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân quy định: “Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương...”
4. Căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 không quy định cụ thể căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự, tuy nhiên để nâng cao hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm, Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự (khoản 1 Điều 33 Quy chế 960; khoản 1 Điều 37 Quy chế 505) hướng dẫn căn cứ để kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm như sau:
- Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy đủ dẫn đến đánh giá không đúng tính chất của vụ án;
- Kết luận, quyết định trong bản án, quyết định sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án;
- Có sai lầm trong việc áp dụng các quy định của BLHS, BLDS và các văn bản pháp luật khác;
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng.
Khoản 1 Điều 5 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định chung về căn cứ kháng nghị đối với bản án, quyết định là trong trường hợp hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Viện kiểm sát nhân dân phải kháng nghị.
5. Thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự
Thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự đối với bản án và quyết định sơ thẩm được quy định tại Điều 337 BLTTHS năm 2015, cụ thể: Đối với bản án sơ thẩm, thời hạn kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày tuyên án; đối với quyết định sơ thẩm, thời hạn kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày kể từ ngày Tòa án ra quyết định.
Để thống nhất nhận thức và áp dụng pháp luật trong thực tế, Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã hướng dẫn về cách tính thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc thời hạn kháng nghị, tại tiểu mục 4.1 mục 4 phần I Nghị quyết số 05 quy định: Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng nghị là ngày tiếp theo của ngày được xác định, ngày được xác định là ngày Tòa án tuyên án hoặc ra quyết định và thời điểm kết thúc thời hạn kháng nghị là ngày cuối cùng của thời hạn, nếu ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật) hoặc ngày nghỉ lễ, thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc đầu tiên tiếp theo ngày nghỉ đó.
6. Bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị phúc thẩm hình sự
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định cho Viện kiểm sát quyền kháng nghị, đồng thời cũng quy định cho Viện kiểm sát được bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị nhằm tạo điều kiện để Viện kiểm sát nghiên cứu, cân nhắc, đảm bảo kháng nghị có căn cứ, đúng pháp luật và có chất lượng.
- Bổ sung, thay đổi kháng nghị
Điều 342 BLTTHS năm 2015 quy định: Trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo và việc thay đổi, bổ sung kháng nghị trước khi mở phiên tòa phải lập văn bản và gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm.
+ Trong trường hợp vẫn còn thời hạn kháng nghị quy định tại Điều 337 BLTTHS 2015 thì Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền bổ sung, thay đổi nội dung kháng nghị đối với phần hoặc toàn bộ bản án mà mình có quyền kháng nghị theo hướng có lợi hoặc không có lợi cho bị cáo. Trong trường hợp Viện kiểm sát đã rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị nhưng sau đó có kháng nghị lại mà vẫn còn trong thời hạn kháng nghị, thì vẫn được chấp nhận để xét xử phúc thẩm theo thủ tục chung.
+ Trong trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại Điều 337 của BLTTHS 2015, thì trước khi bắt đầu hoặc tại phiên toà phúc thẩm Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền bổ sung, thay đổi nội dung kháng nghị nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo.
- Rút kháng nghị
Khoản 1 Điều 342 BLTTHS năm 2015 quy định: Trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị.
Như vậy, theo các quy định trên việc rút kháng nghị có thể thực hiện bất cứ lúc nào, Viện kiểm sát có quyền rút một phần hay toàn bộ kháng nghị. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị của Viện kiểm sát cấp dưới.
Tóm lại: Kháng nghị phúc thẩm án hình sự là quyền năng pháp lý duy nhất mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định cho Viện kiểm sát nhân dân để kháng nghị những bản án, quyết định hình sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án cùng cấp và cấp dưới trực tiếp, khi những bản án, quyết định này có vi phạm pháp luật nghiêm trọng để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm nhằm khắc phục vi phạm, bảo đảm việc xét xử vụ án đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời.