1. Khái niệm truy tố

Truy tố là một giai đoạn của tố tụng hình sự, trong giai đoạn này, Viện kiểm sát tiến hành các hoạt động kiểm tra, đánh giá, củng cố chứng cứ trên cơ sở hồ sơ, kết luận điều tra đề nghị truy tố của Cơ quan điều tra để quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án cũng như ban hành các quyết định tố tụng cần thiết khác.

Giai đoạn truy tố bắt đầu từ khi Viện kiểm sát tiếp nhận hồ sơ vụ án và kết luận điều tra từ Cơ quan điều tra chuyển sang. Điều 240 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Trong thời hạn 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát phải ra một trong những quyết định sau:

  • Truy tố bị can trước Tòa án;
  • Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung;
  • Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với bị can.

Những quyết định tố tụng này được ban hành theo các căn cứ luật định, đồng thời trên cơ sở các cân nhắc, đánh giá của Viện kiểm sát về chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Đây là sự thể hiện của nguyên tắc truy tố bắt buộc trong tố tụng hình sự Việt Nam (Viện kiểm sát chỉ truy tố và phải truy tố khi có đủ chứng cứ) khác với tố tụng hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới theo nguyên tắc tùy nghi truy tố.

 

2. Quyết định truy tố bị can

2.1 Khái niệm 

Quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử là quyết định tố tụng đặc trưng của giai đoạn truy tố của Viện kiểm sát, thể hiện chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát. Hình thức pháp lý của quyết định truy tố bị can là bản cáo trạng.

Các chứng cứ được sử dụng ở trong nội dung bản cáo trạng phải được Viện kiểm sát kiểm tra, đánh giá khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật từ những thời điểm đầu tiên của Tố tụng hình sự cho đến thời điểm quyết định việc truy tố. Do đó bản cáo trạng phải là một sản phẩm buộc tội có căn cứ, xác định đúng tội danh, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự phù hợp với hành vi mà bị can đã thực hiện.

 

2.2 Nội dung được thể hiện trong quyết định truy tố bị can

Điều 243 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định cụ thể về quyết định truy tố bị can, như sau:

Điều 243. Quyết định truy tố bị can

Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng.

Bản cáo trạng ghi rõ diễn biến hành vi phạm tội; những chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị can, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân của bị can; việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và việc xử lý vật chứng; nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội và tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.

Phần kết luận của bản cáo trạng ghi rõ tội danh và điều, khoản, điểm của Bộ luật hình sự được áp dụng.

Bản cáo trạng phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra cáo trạng; họ tên, chức vụ và chữ ký của người ra bản cáo trạng”.

Như vậy dựa theo quy định nêu trên thì bản cáo trạng phải xác định những nội dung như sau:

- Hành vi phạm tội của bị can và các tình tiết thuộc mặt khách quan của tội phạm như tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;

- Các tình tiết làm rõ yếu tố lỗi và các yếu tố thuộc mặt chủ quan của tội phạm như thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội;

- Đặc điểm nhân thân của bị can;

- Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội, từ đó khẳng định có căn cứ để khẳng định trường hợp phạm tội của bị can đã đủ để truy tố Cáo trạng còn phải thể hiện việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và việc xử lý vật chứng (để Tòa án và những người tham gia tố tụng nắm được tiến trình điều tra, thu thập chứng cứ và quan điểm, kết quả của việc các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng thay đổi, hủy bỏ các biện pháp cưỡng chế đối với bị can), quan điểm của Viện kiểm sát về các đối tượng có liên quan, tài sản có liên quan... trong vụ án.

 

3. Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP-TANDTC quy định về các căn cứ để có thể trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, cụ thể bao gồm các căn cứ sau đây:

 

3.1 Còn thiếu chứng cứ để chứng minh mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được

Đây là trường hợp Viện kiểm sát xét thấy còn thiếu những chứng cứ có tính chất quyết định đối với việc giải quyết các vấn để quan trọng trong vụ án. Theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, thiếu chứng cứ quan trọng chính là thiếu chứng cứ để làm rõ những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án quy định tại Điều 85 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, bao gồm:

- Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội.

- Ai là người thực hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý, có năng lực trách nhiệm hình sự hay không, mục đích, động cơ phạm tội

- Những tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo.

- Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.

- Nguyên nhân và điều kiện phạm tội.

- Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.

 

3.2 Có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng

Đây là trường hợp mà trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định và các hành vi không thực hiện hoặc không thực hiện đúng, không thực hiện đủ này của các cơ quan tiến hành tố tụng đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án như các trường hợp được quy định như sau:

- Lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mà theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, nhưng không có phê chuẩn của Viện kiểm sát hoặc việc ký lệnh, quyết định tố tụng không đúng thẩm quyền;

- Không chỉ định, thay đổi hoặc chấm dứt việc chỉ định người bảo chữa cho người bị buộc tội theo quy định tại Điều 76 và Điều 77 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

- Xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ;

- Khởi tố vụ án hình sự nhưng không có yêu cầu của bị hại hoặc của người đại diện của bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 155 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Nhập vụ án hoặc tách vụ ăn không đúng quy định tại Điều 170 hoặc Điều 242 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Không cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết hoặc thông báo văn bản tố tụng gồm lệnh, quyết định, yêu cầu, kết luận điều tra, bản cáo trạng, ban ăn cho người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật xâm hại nghiêm trọng đến quyền bào chữa, quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác;

- Chưa điều tra, lập lý lịch của bị can, chưa xác định được những đặc điểm quan trọng về nhân thân của bị can, bị cáo (tuổi, tiền án, tiền sự), lý lịch hoạt động của pháp nhân thương mại phạm tội (tên, địa chỉ, những vấn đề khác liên quan đến hồ sơ pháp lý của pháp nhân thương mại);

- Không có người phiên dịch, người dịch thuật cho người tham gia tố tụng trong trường hợp họ không sử dụng được tiếng Việt hoặc tài liệu tố tụng không thể hiện bằng tiếng Việt, họ là người câm, người điếc, người mà theo quy định tại Điều 70 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

- Không từ chối tiến hành, tham gia tố tụng hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong trường hợp quy định tại các điều 49, 51, 52, 53, 54, 68, 69 và 70 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

- Việc điều tra, thu thập chứng cứ để chứng minh đối với vụ án không đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự nên không có giá trị chứng minh trong vụ án hình sự;

- Biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà không chuyển cho Viện kiểm sát theo đúng quy định tại khoản 5 Điều 88 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

- Chứng cứ để chứng minh đối với vụ án được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố nhưng không đưa vào hồ sơ vụ án hoặc bị sửa chữa, thêm bớt dẫn đến sai lệch hồ sơ vụ án;

- Việc điều tra, truy tố không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật;

- Có căn cứ để xác định có việc bức cung, nhục hình trong quá trình tiến hành tố tụng làm cho lời khai của bị can không đúng sự thật;

- Khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật, xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ.;

- Những trường hợp khác phải ghi rõ lý do trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

 

4. Tạm đình chỉ vụ án

Căn cứ tạm đình chỉ vụ án được quy định tại Điều 247 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, cụ thể như sau:

- Khi có kết luận giám định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo thì có thể tạm đình chỉ vụ án trước khi hết thời hạn quyết định việc truy tố;

- Khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn quyết định việc truy tố; trong trường hợp này phải yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can trước khi tạm đình chỉ vụ án. Việc truy nã bị can được thực hiện theo quy định tại Điều 231 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp mà chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn quyết định việc truy tố. Trong trường hợp này, việc giám định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp tiếp tục tiến hành cho đến khi có kết quả.

 

5. Đình chỉ vụ án hình sự

Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án hình sự khi có một trong các căn cứ được quy định tại Khoản 2 Điều 155, Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 29 Bộ luật hình sự, cụ thể được xác định như sau:

- Người đã yêu cầu khởi tố vụ án đối với những vụ án chỉ khởi tố theo yêu cầu của người bị hại nhưng người bị hại sau đó lại rút yêu cầu khởi tố, trừ những trường hợp có căn cứ xác định việc rút yêu cầu khởi tố của người bị hại là trái với ý muốn của họ hoặc do họ bị ép buộc, cưỡng ép.

- Phát hiện có căn cứ không khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Có một trong các căn cứ miễn trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 16, Điều 29 và Khoản 2 Điều 91 Bộ luật hình sự năm 2015.

Luật Minh Khuê (tổng hợp)