1. Cơ sở pháp lý:

Cơ sở pháp lý của hệ thống công vụ Thụy Điển bao gồm Luật Công vụ năm 1994 bao gồm các quy định cơ bản (quyền và nghĩa vụ đối với công chức) và Luật Việc làm năm 1994 quy định về các biện pháp kỷ luật đối với công chức nhà nước.

Nhìn chung, các quy tắc về việc làm áp dụng đối với công chức và người lao động trong khu vực tư ở Thụy Điển là như nhau. Mặc dù công chức được hưởng một số điều kiện đặc biệt, song không có một quy định nào về địa vị pháp lý chính thức dành riêng cho họ.

2. Khái quát hệ thống công vụ Thụy Điển

2.1. Cấu trúc:

Theo nguyên tắc chung, các quy tắc về việc làm dành cho khu vực công và khu vực tư là như nhau. Pháp luật Thụy Điển không điều chỉnh nhiều khía cạnh của công vụ, ngoại trừ trách nhiệm của công chức. Như các khu vực khác của thị trường lao động, điều kiện làm việc trong khu vực công của Thụy Điển được dựa trên các thỏa thuận của ngành. Các thỏa thuận này được quy định chi tiết và đầy đủ các phương diện hơn so với quy định của luật.

2.2. Cơ quan quản lý việc làm trong khu vực công

Ở Thụy Điển, Chính phủ đã giao hầu hết trách nhiệm quản lý việc làm cho 250 cơ quan thuộc chính quyền trung ương. Mỗi cơ quan tự tuyển dụng, quản lý và sa thải nhân viên của mình, ngoại trừ người đứng đầu các cơ quan này do Chính phủ bổ nhiệm. Hệ thống chức nghiệp vẫn còn tồn tại trong một vài cơ quan như ngoại giao, cảnh sát và lực lượng vũ trang.

Mỗi cơ quan được lãnh đạo bởi một quan chức điều hành do Chính phủ bổ nhiệm, theo nhiệm kỳ 6 năm. Đôi khi một chính trị gia cũng được bổ nhiệm làm Tổng Cục trưởng. Ban quản trị của một cơ quan bao gồm người đứng đầu của cơ quan, một số quan chức cấp cao hoặc đại diện của tổ chức, các nhóm dân cư và đôi khi có cả các chính trị gia. Tất cả các thành viên Ban quản trị do Chính phủ bổ nhiệm. Còn lại hầu hết các công chức khác do các cơ quan tuyển dụng.

Các Bộ hoặc Bộ trưởng không thể can thiệp vào việc giải quyết các công việc của các cơ quan. Các cơ quan của chính quyền trung ương sẽ kiến nghị với Chính phủ về việc điều chỉnh các quy định pháp luật liên quan đến các lĩnh vực thuộc chức năng nhiệm vụ của các cơ quan này. Chính phủ Thụy Điển giao vai trò điều phối các chính sách sử dụng lao động của chính quyền trung ương và vai trò đàm phàn với các nghiệp đoàn trên phạm vi cả nước cho Cơ quan sử dụng lao động công của Thụy Điển (SAGE).

SAGE được thành lập vào ngày 01/7/1995, có 250 cơ quan thành viên thuộc khu vực chính quyền trung ương, các thành viên khác bao gồm các tổ chức xã hội mà chủ yếu là các quỹ.

Cơ quan quản lý cao nhất của SAGE là Hội đồng những người sử dụng lao động (Hội đồng), được triệu tập mỗi năm một lần. Hội đồng được tạo thành từ 250 người đứng đầu của các cơ quan thành viên (gồm các Tổng Cục trưởng, Hiệu trưởng và Tỉnh trưởng). Hội đồng quyết định các chính sách sử dụng lao động và phí hội viên. Hội đồng cũng bổ nhiệm 15 thành viên Ủy ban. Ủy ban SAGE đóng vai trò trung tâm trong các cuộc đàm phán lương với nghiệp đoàn, là cơ quan tối cao của các cuộc họp Hội đồng. Không giống như những người đứng đầu điều hành khác, do Chính phủ bổ nhiệm, Tổng Giám đốc của SAGE do ủy ban bổ nhiệm.

SAGE được chia thành 9 ngành, mỗi ngành do một đoàn đại biểu ngành đại diện. Đoàn đại biểu là cơ quan tư vấn cho Ủy ban và Tổng Giám đốc.

Phân nhóm công chức (nhân viên Chính phủ): Các công chức cấp cao do Chính phủ bổ nhiệm có thể được chia thành hai nhóm:

1. Nhóm thứ nhất bao gồm các cán bộ điều hành tại các cơ quan như  Tổng Cục trưởng (Director-Generals), Tỉnh trưởng, Thủ trưởng cơ quan trực thuộc Chính phủ, Phó Hiệu trưởng các trường đại học và cao đẳng, Phó Tổng Cục trưởng, Phó Tỉnh trưởng và Giám đốc các sở (County Directors) (khoảng 280 người).

2. Nhóm thứ hai bao gồm các Quốc vụ khanh  và Tổng Cục trưởng trong các bộ có chức năng hỗ trợ về hành chính và pháp lý cho các thành viên của Chính phủ (khoảng 80 người).

Theo số liệu thống kê: Theo Cơ quan sử dụng lao động của Chính phủ Thụy Điển, trong năm 2009, có 236.000 người thuộc biên chế nhà nước. Cơ cấu giới tính là 50/50. Công  chức cấp cao bao gồm khoảng 360 người. Hơn nữa có một nhóm các nhà quản lý trực tiếp báo cáo các Tổng Cục trưởng và có thủ trưởng các phòng, ban tại cơ quan của chính quyền trung ương. Số lượng người trong nhóm này có thể được ước tính vào khoảng 2.600 người trong tổng số 12.600 cán bộ quản lý trong chính quyền trung ương, trong số đó nữ giới có khoảng 4.800 người chiếm gần 38%.

3. Quyền và nghĩa vụ của công chức ở Thụy Điển

Công chức Thụy Điển có quyền tham gia các nghiệp đoàn nhưng họ lại không thích sự bảo đảm về việc làm. Việc giảm biên chế có thể  được thực hiện nếu có "lý do chính đáng" (như việc tổ chức lại các phòng ban). Từ năm 1991, Quỹ An ninh việc làm giúp cho những công chức đã bị sa thải có đủ điều kiện và hướng dẫn họ tìm kiếm việc làm mới trên thị trường lao động.

Các cơ quan truyền thông được quyền giám sát tính minh bạch trong hoạt động của các cơ quan công quyền, ngoại những thông tin bí mật. Quyền được tiếp cận thông tin trao cho người dân cơ hội tiếp cận văn kiện của các cơ quan công quyền và thông qua đó kiểm tra, giám sát các cơ quan này.

Công chức Chính phủ có quyền tự do thể hiện rất lớn. Họ có quyền tự do công bố thông tin về các hoạt động của cơ quan, với điều kiện đó không phải là các thông tin bí mật. Điều này cũng đồng nghĩa với quyền gửi thông tin cho các phương tiện truyền thông đại chúng.

Công chức cũng được công nhận quyền thương lượng tập thể, quyền tự do tham  gia nghiệp đoàn và đình công.

4. Hệ thống chức nghiệp (Career-Based System) ở Thụy Điển

Trong hầu hết các cơ quan nhà nước, hệ thống chức nghiệp chính thức đã được bãi bỏ từ những năm 1990. Thay vào đó là hệ thống công vụ dựa trên vị trí việc làm trong đó việc bổ nhiệm mới vào các vị trí được thực hiện dựa trên sự cạnh tranh về năng lực có trên thị trường lao động. Tuy nhiên hệ thống chức nghiệp vẫn tồn tại trong các văn phòng ở nước ngoài, trong các cơ quan quốc phòng và cảnh sát.

Đào tạo, bồi dưỡng: Nhìn chung, những người làm việc trong khu vực công ở chính quyền trung ương được tham gia nhiều khóa đào tạo, bồi dưỡng hơn so với những người lao động ở khu vực khác. Năm 2008, thời gian dành cho đào tạo, bồi dưỡng công chức chiếm 3,6% tổng số thời giờ làm việc trong khu vực chính quyền trung ương, trong khi đó con số tương ứng cho toàn bộ thị trường lao động là 2,1%. Số lượng nhân viên tham gia đào tạo ở khu vực chính quyền trung ương tương đối lớn chiếm 57% so với 46% của cả thị trường lao động.

Thời gian đào tạo trung bình đối với công chức là 6 ngày, còn của thị trường lao động là 4 ngày. Theo số các cuộc điều tra được tiến hành qua các năm khác nhau được công bố, từ năm 2006, tỉ lệ thời giờ làm việc, thời gian tham gia đào tạo, bồi dưỡng và thời gian đào tạo, bồi dưỡng trung bình đều giảm đối với tất cả các khu vực của thị trường lao động, ngoại trừ Hội đồng tỉnh.

5. Quy định về tiền lương ở Thụy Điển

Thụy Điển không có quy định về hệ thống tiền lương quốc gia, do đó mỗi cơ quan quản lý công chức tự chịu trách nhiệm quản lý đối với ngân sách của mình, quyết định một phần tiền lương của công chức.

Các thỏa ước tập thể được đàm phán ở cấp trung ương, sau đó ở từng cơ quan và cuối cùng là thương lượng với từng cá nhân người lao động với mục đích là đảm bảo thù lao được trả là cạnh tranh trên toàn bộ thị trường lao động khi thực hiện cùng một loại hoạt động.

Do đó, Chính phủ chỉ quyết định tiền lương đối với công chức cấp cao. Hiệp định khung về tiền lương chung được xác định ở cấp trung ương bởi các đối tác xã hội ở cấp quốc gia và việc đàm phán chi tiết hơn được thực hiện trong mỗi cơ quan ở cấp địa phương.

Tiền lương của thủ trưởng các cơ quan của chính quyền trung ương được quyết định tùy theo năng lực và kinh nghiệm của họ. Tiền lương được trả cũng được căn cứ vào áp lực công việc, ngân sách, mức độ phức tạp, kết quả công việc và sự đánh giá hàng năm.

6. Đối thoại xã hội và hệ thống đại diện ở Thụy Điển

Hiệp định 1966 quy định cho công chức quyền thương lượng về tiền lương và điều kiện làm việc. SAGE đại diện cho nhà nước, là một cơ quan quốc gia chịu trách nhiệm độc lập đối với các thỏa thuận với người lao động.

Tất cả các cơ quan nhà nước đều là thành viên bắt buộc của SAGE (được tài trợ hoàn toàn từ phí hội viên). Công chức ở chính quyền trung ương được đại diện bởi ba tổ chức công đoàn.

Hiệp định cơ bản và Hiệp định hợp tác được thiết lập giữa SAGE và các nghiệp đoàn đối với khu vực chính quyền trung ương phải được Chính phủ phê duyệt. Các hiệp định này điều chỉnh các quá trình đàm phán mức lương và điều kiện chung về việc làm cũng như quy định các bên có thể hành động như thế nào khi xảy ra bãi công.

Khuôn khổ các cuộc đàm phán về lương và điều kiện làm việc được thực hiện trước tiên ở cấp trung ương giữa SAGE và các nghiệp đoàn. Các bên ký kết các thỏa ước ở cấp trung ương, thiết lập khuôn khổ và điều kiện tiên quyết cho việc đàm phán về lương tại địa phương. Các thỏa thuận ở cấp trung ương tạo khuôn khổ tương đối rộng cho các cơ quan tùy chỉnh các điều khoản điều kiện của mình trong thoả ước tập thể của địa phương. Với việc ký kết các thỏa ước ở trung ương, các bên cam kết không bãi công.

Các cuộc đàm phán ở địa phương giữa bên sử dụng lao động và các nghiệp đoàn địa phương được tiến hành theo sau việc ký kết các thỏa ước ở trung ương. Bãi công không được diễn ra trong thời gian tiến hành đàm phán. Mức lương mới cho người lao động được quyết định trong hoặc sau buổi thương lượng giữa các bên. Hơn nữa, thông qua thỏa ước tập thể các điều kiện làm việc khác như thời giờ làm việc, trợ cấp y tế... có thể được điều chỉnh phù hợp với điều kiện ở từng địa phương. Thoả ước tập thể ở địa phương quy định cụ thể các hình thức hợp tác giữa người sử dụng lao động và các nghiệp đoàn địa phương cũng có thể được ký kết. Các thỏa ước có tính bắt buộc trực tiếp khác ở trung ương bao gồm sự bảo đảm việc làm, điều chỉnh lương hưu và các điều kiện làm việc chung khác cũng được ký kết.

7. Công chức cấp cao (Senior Civil Servants - SCS) Thụy Điển

Không có quy định chính thức nào về địa vị của công chức cấp cao ở Thụy Điển. Công  chức cấp cao được chia thành 2 nhóm. Nhóm thứ nhất bao gồm các vị trí: Tổng Cục trưởng, Thống đốc và các vị trí cấp cao khác như thủ trưởng các cơ quan ở Trung ương hoặc Phó Hiệu trưởng các trường đại học. Nhóm thứ hai bao gồm các Quốc vụ khanh (State Secretaries) và các Phó Quốc vụ khanh (Deputy Secretaries).

Chức trách

Chức danh

Bộ phận của SCS?

Bổ nhiệm các

vị trí chính trị

Mức 1

- Quốc vụ khanh

- Tổng Cục trưởng

Mức 2

- Tổng Cục trưởng

- Tỉnh trưởng

- Thủ trưởng các cơ quan ở Trung ương

- Phó Hiệu trưởng các trường đại học

Không

 Tuyển dụng: Việc tuyển dụng công chức cấp cao được tiến hành trong nội bộ các Bộ, từ các cơ quan của Chính phủ hoặc từ khu vực tư căn cứ vào yêu cầu về năng lực, khả năng lãnh đạo và kinh nghiệm làm việc đối với chức vụ cần tuyển. Các Quốc vụ khanh được bổ nhiệm vào các vị trí chính trị. Ở các cơ quan của Chính phủ, Tổng Cục trưởng do Chính phủ bổ nhiệm và được lựa chọn trên cơ sở năng lực và thành tích của các ứng viên. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, các chính trị gia cũng có thể được bổ nhiệm làm Tổng Vụ trưởng.

Quản lý: ở Thụy Điển, Chính phủ đã giao hầu hết trách nhiệm của người sử dụng lao động cho các cơ quan của Chính phủ (thực hiện các công việc của nền hành chính trung ương). Mỗi cơ quan được cấp ngân sách riêng và tự thuê nhân viên. SAGE giữ vai trò điều phối về việc làm đối với các vị trí cấp cao và thương lượng với các nghiệp đoàn.

Đánh giá: Hầu hết các chính sách quản lý nguồn nhân lực của Chính phủ gần đây đều quy định việc gia tăng mối quan hệ giữa Bộ quản lý và thủ trưởng các cơ quan liên quan trên cơ sở tiến hành đối thoại thường xuyên. Các cuộc đối thoại tập trung phân tích các kỹ năng cá nhân và kỹ năng quản lý của mỗi công chức cấp cao. Mỗi cơ quan phải đánh giá từng nhóm nhân viên và phải đưa ra các tiêu chí cơ bản cho các đánh giá này

Đào tạo và các chương trình đào tạo lãnh đạo: Bộ Tài chính chịu trách nhiệm phát triển các chương trình đào tạo và đào tạo lãnh đạo. Các chương trình này không bắt buộc đối với các cơ quan. Các khóa học với mục đích phát triển kỹ năng lãnh đạo của công chức cấp cao và mỗi cơ quan có trách nhiệm cung cấp các hướng dẫn cần thiết về công vụ để thủ trưởng các cơ quan này có thể thực hiện chúng. Việc đào tạo này được thực hiện ở các trung tâm đào tạo nội bộ hoặc trung tâm bên ngoài.

Luân chuyển: Vì các công chức cấp cao được tuyển dụng theo hợp đồng có thời hạn nên việc luân chuyển thường không dễ tiến hành. Thủ trưởng các cơ quan hoặc các vị trí tương đương thường được bổ nhiệm 6 năm và có thể được gia hạn thêm 3 năm. Sau khi hết hạn việc luân chuyển công chức từ các cơ quan sang các khu vực khác được tiến hành thuận lợi hơn.

Chính sách đa dạng và bình đẳng: Thụy Điển có chính sách đa dạng và bình đẳng giới trong cán bộ, công chức nói chung và giữa các công chức cấp cao nói riêng.

Thời giờ làm việc: công chức cấp cao được áp dụng chế độ thời giờ làm việc linh hoạt, trung bình không quá 39 giờ 45 phút/tuần. Công chức cấp cao có thể làm việc qua điện thoại, tuy nhiên trong thực tế, họ phải tham dự rất nhiều cuộc họp và hội nghị do đó làm giảm khả năng làm việc ở nhà của họ.

Thụy Điển cũng có ưu đãi pháp lý cho công chức hành chính có thể áp dụng chính sách làm việc bán thời gian và thời gian làm việc linh hoạt

Trợ cấp nghỉ phép: Người lao động được quyền nghỉ phép để chăm sóc con cái, trong trường hợp đó họ được Cơ quan bảo hiểm xã hội Thụy Điển chi trả trợ cấp nghỉ phép. Cơ quan sử dụng lao động sẽ chi trả trợ cấp bổ sung nhưng tổng số tiền chi trả không quá 90% thu nhập của người lao động trong thời gian nghỉ phép. Người lao động có con nhỏ cũng có thể làm việc bán thời gian.

Chế độ thai sản: Những người mới sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi được Cơ quan Bảo hiểm xã hội Thụy Điển trả trợ cấp cho tổng số 480 ngày. 390 ngày mức trợ cấp tối đa được trả bằng 80% của mức trần thu nhập. Nhân viên Chính phủ được trợ cấp bổ sung từ cơ quan sử lao động cho tối đa 360 ngày. Mức chi trợ cấp bổ sung tương ứng với 90% của thu nhập của công chức. Ngoài ra, công chức cũng có thể được thanh toán thêm cho 90 ngày với mức trợ cấp thấp nhất (khoảng 180 SEK/ngày)

Trợ cấp tạm thời cho cha mẹ chăm sóc con ốm: Một nhân viên yêu cầu nghỉ phép để chăm sóc con ốm nhận được trợ cấp chăm sóc trẻ ốm từ Cơ quan Bảo hiểm xã hội Thụy Điển là 80% mức trần thu nhập của họ. Cơ quan sử dụng lao động của Chính phủ trả trợ cấp bằng 80% tổng thu nhập của người lao động trong những ngày nghỉ phép.

Bài viết tham khảo: Một số nét về hệ thống công vụ Vương quốc Thụy Điển; Nguyễn Thu Hà (Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ).