Mục lục bài viết
1. Tội vi phạm quy định về cho vay của các tổ chức tín dụng?
Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng được quy định tại Điều 179, Bộ luật hình sự năm 1999. Đến nay, theo Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã có sự thay đổi tên gọi mang tính khái quát hơn - Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng. Bởi việc cho vay cũng là một trong những hoạt động chính của các ngân hàng, cụ thể như sau:
Điều 206. Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây gây thiệt hại cho người khác về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Cấp tín dụng cho trường hợp không được cấp tín dụng, trừ trường hợp cấp dưới hình thức phát hành thẻ tín dụng;
b) Cấp tín dụng không có bảo đảm hoặc cấp tín dụng với điều kiện ưu đãi cho đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng theo quy định của pháp luật;
c) Vi phạm quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn cho hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng;
d) Cố ý nâng khống giá trị tài sản bảo đảm khi thẩm định giá để cấp tín dụng đối với trường hợp phải có tài sản bảo đảm;
đ) Vi phạm quy định của pháp luật về tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng;
e) Cấp tín dụng vượt giới hạn so với vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan, trừ trường hợp có chấp thuận của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
g) Vi phạm quy định của pháp luật về góp vốn, giới hạn góp vốn, mua cổ phần, điều kiện cấp tín dụng;
h) Phát hành, cung ứng, sử dụng phương tiện thanh toán không hợp pháp; làm giả chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán; sử dụng chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán giả;
i) Kinh doanh vàng trái phép hoặc kinh doanh ngoại hối trái phép;
k) Tiến hành hoạt động ngân hàng khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng.”.
Luật sư tư vấn pháp luật hình sự qua điện thoại gọi: - 1900.6162
----------------------------------------
PHÂN TÍCH CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ LIÊN QUAN ĐẾN TỘI DANH:
Tội vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài là hành vi của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cố ý thực hiện các vi phạm quy định của pháp luật về hoạt động của mình gây thiệt hại về tài sản.
Thứ nhất, về dấu hiệu pháp lý của tội phạm:
* Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội này là sự xâm phạm hoạt động đúng đắn và an toàn của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
* Chủ thể tội phạm:Chủ thể của tội là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Đây là tội phạm có dấu hiệu chủ thể đặc biệt, do đó người phạm tội chỉ có thể là người có có chức vụ, quyền hạn trong các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
* Mặt khách quan của tội phạm: Theo nội dung quy định tại Điều 206, tội này được thực hiện thông qua các dấu hiệu sau:
- Cấp tín dụng cho trường hợp không được cấp tín dụng, trừ trường hợp cấp dưới hình thức phát hành thẻ tín dụng;
- Cấp tín dụng không có đảm bảo hoặc cấp tín dụng với điều kiện ưu đãi cho đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng theo quy định của pháp luật;
- Vi phạm quy định về tỉ lệ bảo đảm an toàn cho hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng;
- Cố ý nâng khống giá trị tài sản bảo đảm khi thẩm định giá để cấp tín dụng đối với trường hợp có tài sản bảo đảm;
- Vi phạm quy định của pháp luật về tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng;
- Cấp tín dụng vượt quá giới hạn so với vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan, trừ trường hợp có chấp thuận của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
- Vi phạm quy định của pháp luật về góp vốn, giới hạn góp vốn, mua cổ phần, điều kiện cấp tín dụng;
- Phát hành, cung ứng, sử dụng phương tiện thanh toán không hợp pháp; làm giả chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán; sử dụng chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán giả;
- Kinh doanh vàng trái phép hoặc kinh doanh ngoại hối trái phép;
- Tiến hành hoạt động ngân hàng khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phéptheo quy định của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng.
Các hành vi nêu trên chỉ cấu thành tội phạm nếu gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng.
* Mặt chủ quan: Tội phạm quy định tại Điều này được thực hiện với lỗi cố ý.
3.Về hình phạt
Điều 206 quy định 4 khung hình phạt:
-Người phạm tội theo khoản 1 thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
-Người phạm tội theo khoản 2 thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
-Người phạm tội theo khoản 3 thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.
-Người phạm tội theo khoản 4 thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
-Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
>> Tham khảo: Phân tích cơ chế đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng?
2. Cho vay lãi 2%/tháng có phạm luật không ?
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi: 1900.6162
Luật sư tư vấn:
hoản 1, Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
"Điều 468. Lãi suất
1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuậnkhông được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất."
Theo nội dung quy định nêu trên, mức lãi suất sẽ do người cho vay và người vay thỏa thuận nhưng không được vượt quá 20%/năm, cụ thể: 20 : 12 = 1,67%/tháng. Vậy mức lãi suất 2%/ tháng là vượt quá mức lãi suất theo quy định của Bộ luật dân sự 2015.
Còn đối với việc xem xét có cấu thành quy định về tội cho vay lãi nặng theo Bộ luật Hình sự hay không thì sẽ phải xem xét quy định dưới đây:
Điều 201. Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
%/ tháng là vượt quá mức lãi suất theo quy định của Bộ luật dân sự 2015.
Theo quy định tại Điều 201 Bộ luật hình sự thì để bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cho vay lãi nặng thì phải cho vay với mức lãi suất gấp 05 lần trở lên so với mức lãi suất mà pháp luật quy định. Như vậy, mức lãi suất phải từ 8,3%/tháng thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này.
Theo đó, bạn cho vay với mức lãi suất là 2%/tháng là chưa đủ điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, nếu có tranh chấp, thì lúc này Tòa án chỉ giải quyết dựa theo mức lãi suất mà pháp luật dân sự cho phép (1,67%/tháng)
>> Xem thêm: Tại sao phải bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động của các tổ chức tín dụng?
3. Tư vấn về việc vay vốn ngân hàng?
>> Luật sư tư vấn luật dân sự trực tuyến, gọi: 1900.6162
Trả lời:
Do trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên mẹ bạn nên bố bạn muốn vay vốn ngân hàng và dùng sổ đỏ đó đem thế chấp thì phải có văn bản ủy quyền của mẹ bạn. Văn bản ủy quyền phải lập thành văn bản và được công chứng.
Do mẹ bạn đang ở Malaisia nên áp dụng khoản 2 Điều 55 Luật công chứng 2014:
"Điều 55. Công chứng hợp đồng ủy quyền
1. Khi công chứng các hợp đồng ủy quyền, công chứng viên có trách nhiệm kiểm tra kỹ hồ sơ, giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của các bên và hậu quả pháp lý của việc ủy quyền đó cho các bên tham gia.
2. Trong trường hợp bên ủy quyền và bên được ủy quyền không thể cùng đến một tổ chức hành nghề công chứng thì bên ủy quyền yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng nơi họ cư trú công chứng hợp đồng ủy quyền; bên được ủy quyền yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng nơi họ cư trú công chứng tiếp vào bản gốc hợp đồng ủy quyền này, hoàn tất thủ tục công chứng hợp đồng ủy quyền."
Như vậy, mẹ bạn có thể đến cơ quan đại diện ngoại giao ở Malaisia công chứng hợp đồng ủy quyền, rồi gửi hợp đồng này về Việt Nam, sau đó, bố bạn yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng nơi bố bạn cư trú công chứng tiếp vào bản hợp đồng mà mẹ bạn đã gửi. Với hợp đồng ủy quyền này, bố bạn có thể đem thế chấp sổ đỏ đứng tên mẹ bạn để vay vốn.
4. Tư vấn khi vay tiền dưới hình thức hợp đồng tín chấp ?
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi: 1900.6162
Trả lời:
Thứ nhất, về hợp đồng cho vay theo quy định Điều 463 Bộ luật dân sự năm 2015:
Điều 463. Hợp đồng vay tài sản
Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
Khi đó, bên vay cần phải thực hiện nghĩa vụ như sau:
Điều 466. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay
1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.
3. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
5. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:
a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;
b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Thứ hai, về hợp đồng cho thuê tài sản căn cứ theo Điều 480 Luật Dân Sự 2015:
Điều 472. Hợp đồng thuê tài sản
Hợp đồng thuê tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho thuê giao tài sản cho bên thuê để sử dụng trong một thời hạn, bên thuê phải trả tiền thuê.
Hợp đồng thuê nhà ở, hợp đồng thuê nhà để sử dụng vào mục đích khác được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, Luật nhà ở và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Theo quy định Điều 481 Bộ luật Dân sự 2015, bạn cần phải thực hiện nghĩa vụ sau:
Điều 481. Trả tiền thuê
1. Bên thuê phải trả đủ tiền thuê đúng thời hạn đã thỏa thuận; nếu không có thỏa thuận về thời hạn trả tiền thuê thì thời hạn trả tiền thuê được xác định theo tập quán nơi trả tiền; nếu không thể xác định được thời hạn theo tập quán thì bên thuê phải trả tiền khi trả lại tài sản thuê.
2. Trường hợp các bên thỏa thuận việc trả tiền thuê theo kỳ hạn thì bên cho thuê có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng, nếu bên thuê không trả tiền trong ba kỳ liên tiếp, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Điều 482. Trả lại tài sản thuê
1. Bên thuê phải trả lại tài sản thuê trong tình trạng như khi nhận, trừ hao mòn tự nhiên hoặc theo đúng như tình trạng đã thỏa thuận; nếu giá trị của tài sản thuê bị giảm sút so với tình trạng khi nhận thì bên cho thuê có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ hao mòn tự nhiên.
Như vậy, khi bạn trả tiền vay tín chấp, có nghĩa là bạn đã thực hiện xong nghĩa vụ tài chính. Tuy nhiên, về hợp đồng cho thuê máy tính xách tay, chúng tôi không biết việc thỏa thuận trong hợp đồng này là trả tiền hay trả tài sản vay? Nhưng dựa vào căn cứ pháp lý nêu trên bạn có thể áp dụng vào trường hợp của mình.
5. Tư vấn trao đổi để hoàn thiện qui định về hợp đồng vay tài sản
Các vụ án tranh chấp về hợp đồng vay tài sản chiếm đa số trong các vụ án dân sự; trừ số ít vụ án “đòi nợ” có hợp đồng vay tín dụng với ngân hàng, còn phần lớn các vụ án đòi nợ được xác lập giữa các bên không có hợp đồng vay tài sản. Chứng cứ của bên cho vay chỉ là giấy mượn, giấy vay tiền, giấy xác nhận nợ…, những loại giấy này chỉ được bên vay đơn phương viết và ký xác nhận.
Với những loại chứng cứ trên, việc đòi nợ, thì nội dung vụ án rất là phức tạp, khi các bên không công nhận việc vay nợ lẫn nhau, tỷ lệ lãi suất phải trả, phần lớn các vụ án bị đơn lại không chấp nhận số tiền ghi trên giấy nợ do chính bị đơn viết và viện dẫn rằng đây là tiền chơi hụi, tiền cho vay nặng lãi. Nguyên đơn đã yêu cầu hoặc dồn ép bị đơn phải viết giấy nợ lại, nhưng lại không hủy giấy nợ cũ, nay nguyên đơn lợi dụng giấy nợ cũ để làm chứng đòi nợ bị đơn.
- Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi: 1900.6162
Từ những vụ án đòi nợ phức tạp đã qua, thiết nghĩ cần phải có hướng dẫn cụ thể dựa vào Điều 463 Bộ luật Dân sự 2015 về hình thức hợp đồng vay tài sản bằng văn bản. Ví dụ như đối với hợp đồng vay tài sản có giá trị từ bao nhiêu trở lên, có thể từ 5 triệu hay 10 triệu đồng trở lên cần phải lập bằng văn bản có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của ủy ban nhân dân phường, xã hoặc là luật sư xác nhận làm chứng (vì địa vị của luật sư không thể làm chứng gian dối được) thì lúc đó văn bản hợp đồng vay vốn mới có giá trị pháp lý, lúc đó người đi vay không có lý do gì để phủ nhận việc vay của mình, người cho vay cũng không có lý do gì ép người vay hoặc lợi dụng giấy tờ vay không rõ ràng để khởi kiện đòi nợ. Có như vậy mới giúp cho tòa án xét xử về hợp đồng vay được đúng đắn và khách quan, bảo đảm sự công bằng của pháp luật đến mọi người dân.
Mặt khác, khi vụ án đòi nợ, ngoài việc số tiền gốc cho vay, nguyên đơn bao giờ cũng yêu cầu tính lãi suất, thường thì giữa nguyên đơn và bị đơn không bao giờ thống nhất với nhau về tỷ lệ tính lãi, nguyên đơn thường nêu số lãi cao hơn so với bị đơn. Vậy tòa án sẽ dựa vào giấy vay có ghi lãi suất và thời hạn cho vay để tính lãi?
Theo Bộ luật Dân sự năm 2015 thì hợp đồng vay tài sản được thể hiện bốn hình thức: Hợp đồng vay không có lãi, có thời hạn; Hợp đồng vay có lãi, có thời hạn; Hợp đồng vay không có lãi, không có thời hạn; Hợp đồng vay có lãi, không có thời hạn. Mỗi hình thức cho vay khác nhau thì việc qui định quyền và nghĩa vụ bên cho vay và bên vay cũng khác nhau.
Đối với hợp đồng vay không có lãi, có thời hạn, theo khoản 4 Điều 466 thì việc tính lãi, nếu hạn bên vay không trả nợ hoặc không đầy đủ, thì bên vay phải trả lãi đối với các khoản nợ trả chậm theo lãi suất tiết kiệm có thời hạn của ngân hàng Nhà nước tương ứng với thời gian trả chậm.
Đối với hợp đồng vay có lãi, có thời hạn, khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ theo khoản 5 Điều 466 quy định, thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi suất quá hạn của ngân hàng Nhà nước tương ứng với thời hạn tại thời điểm trả nợ.
Theo Điều 468 lãi suất do hai bên thỏa thuận, nhưng không được vượt quá 20%/năm. Còn trường hợp hai bên có thỏa thuận về lãi suất, nhưng không xác định lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.
Trên đây là ý kiến trao đổi để hoàn thiện về hợp đồng vay tài sản.
(MINH KHUE LAW FIRM: sưu tầm & biên soạn)