1. Lý thuyết về quyền được bảo đảm an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín hay

a. Nội dung về quyền đảm bảo an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín được mô tả như sau:

- Là một trong những quyền cơ bản của công dân và được phân chia trong Hiến pháp của đất nước chúng ta, cụ thể là Điều 73 của Hiến pháp 1992.

- Việc đảm bảo an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân có nghĩa là không ai được phép chiếm đoạt hoặc tự ý mở đọc thư tín, điện tín của người khác và cũng không được thực hiện nghe trộm điện thoại. Hành vi đọc trộm tin nhắn từ điện thoại người khác đồng nghĩa với việc vi phạm quyền được đảm bảo an toàn và bí mật nói trên.

b. Trách nhiệm của công dân:

- Công dân cần có ý thức tôn trọng đối với bí mật, an toàn của thư tín, điện thoại, điện tín.

- Nghiêm túc tuân thủ quy định, không xâm phạm hoặc chiếm đoạt thư tín, điện thoại, điện tín của người khác.

- Công dân cũng có trách nhiệm phê phán, ngăn chặn, và tố cáo những hành vi xâm phạm quyền đảm bảo an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của người khác.

 

2. Pháp luật quy định như thế nào về Quyền được đảm bảo bí mật thư tín, điện thoại, điện tín?

Thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác đều là thông tin thuộc lĩnh vực bí mật cá nhân và được Hiến pháp và pháp luật đặc biệt bảo vệ. Mọi hành vi xâm phạm đối với những thông tin này sẽ chịu sự xử lý theo quy định của pháp luật, đặc biệt khi có yêu cầu từ phía người bị xâm phạm.

Khoản 2 của Điều 21 trong Hiến pháp năm 2013 rõ ràng quy định: Mọi người đều có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và mọi hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và mọi hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác là nghiêm cấm.

Điều 38 của Bộ luật Dân sự năm 2015 chi tiết hóa quyền bí mật đời tư:

- Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân cần có sự đồng ý của người đó.

- Thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được sự đồng thuận của các thành viên gia đình, trừ khi có quy định khác từ luật.

- Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và mọi hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân đều được bảo đảm an toàn và bí mật, chỉ có thể bị bóc mở, kiểm soát, thu giữ theo quy định của pháp luật.

Điều 12 của Luật Viễn thông năm 2009 cũng cấm các hành vi xâm phạm trong lĩnh vực viễn thông, trong đó có việc thu trộm, nghe trộm, xem trộm thông tin trên mạng viễn thông; trộm cắp, sử dụng trái phép tài nguyên viễn thông, mật khẩu, khóa mật mã và thông tin riêng của tổ chức, cá nhân khác.

Các hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác bao gồm:

- Chiếm đoạt thư tín, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác của người khác thông qua mạng bưu chính, viễn thông bằng nhiều phương thức như sử dụng vũ lực, đe dọa, lén lút, gian lận, hoặc công khai.

- Tương tự như việc chiếm đoạt tài sản, hành vi này không nhất thiết phải là việc sử dụng thư tín, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác cho bản thân mà có thể là chỉ lấy và vứt bỏ mà không sử dụng.

- Xâm phạm an toàn thư tín, điện thoại, điện tín bằng cách làm hư hỏng hoặc mất mát thông tin trong thư tín, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác của người khác thông qua nhiều cách thức như tiêu hủy, đốt, xé, xóa, hoặc không đưa thông tin đến người nhận theo trình tự.

- Nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật mà không có sự đồng ý của tất cả các bên tham gia cuộc trò chuyện.

- Khám xét, thu giữ thư tín, điện tín mà không có sự cho phép của pháp luật.

- Các hành vi khác xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác, bao gồm sử dụng các mạng xã hội như Facebook, Zalo, Viber để trao đổi thông tin riêng tư qua các hình thức chữ viết, hình ảnh, hoặc âm thanh.

Các hành vi vi phạm bí mật và an toàn trong truyền thông như đã mô tả trước đó là các hành vi không tuân thủ pháp luật. Để xác định xem đây có phải là hành vi vi phạm tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín không, cần phải so sánh với các quy định của các cơ quan chuyên ngành như Tổng cục Bưu điện, Tổng Công ty Viễn thông, v.v.

Hậu quả của những hành động này đầu tiên là làm mất bí mật hoặc làm cho thông tin không đến được đích đến, từ đó có thể dẫn đến hậu quả về mặt vật chất hoặc tinh thần đối với những người liên quan.

Bộ Luật Hình sự năm 2015 không đặt trọng tâm vào việc đánh giá thiệt hại gây ra bởi hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại. Thay vào đó, chỉ cần xác định rằng thư tín, điện thoại, điện tín hoặc các hình thức trao đổi thông tin riêng tư đã bị lộ, chiếm đoạt hoặc xâm phạm là đã thành lập tội. Những hậu quả khác chỉ có ý nghĩa trong việc đánh giá mức độ nghiêm trọng của tội để xác định hình phạt.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy tình trạng xâm phạm thư tín, điện thoại, điện tín và trao đổi thông tin riêng tư khác diễn ra phổ biến ở Việt Nam, nhưng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người thực hiện hành vi này thường không đủ nghiêm túc. Nguyên nhân chính của tình trạng này có thể là do ý thức pháp luật chưa được nâng cao, và chỉ khi hậu quả nghiêm trọng phát sinh mới dẫn đến truy cứu trách nhiệm hình sự.

 

3. Ví dụ về quyền được bảo đảm an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín

Ví dụ 1: An có người bạn thân là Hà và thường xuyên trao đổi tin nhắn để chia sẻ cuộc sống. Trong một dịp, An quên điện thoại ở phòng và mẹ An nhìn thấy cơ hội này để đọc tin nhắn của An và Hà. Trong những cuộc trò chuyện này, An và Hà chia sẻ những câu chuyện riêng tư. Mẹ An đã nhắc nhở An và yêu cầu chia sẻ với mẹ khi cần. Hành động của mẹ An đã xâm phạm quyền bí mật của điện thoại và tin nhắn giữa An và Hà.

Ví dụ 2: Chị H gửi một bức thư kể về cuộc sống ở nước ngoài cho chị B. Trong quá trình vận chuyển, bức thư bị kẹt và rách một phần. Nhân viên vận chuyển, tò mò, đã mở thư để đọc và sau đó đóng gói lại để tiếp tục vận chuyển. Khi chị B nhận được, thấy bức thư đã bị hỏng. Hành vi của nhân viên đã vi phạm quyền an toàn và bí mật thư tín của chị H.

Ví dụ 3: Anh Q thường xuyên gửi email công việc quan trọng cho nhân viên và đối tác. Trong một lần, thư ký của anh Q thấy email mở trên màn hình và quyết định đọc lén. Anh Q bắt gặp hành vi này và sau đó thư ký bị sa thải. Thư ký đã xâm phạm quyền bảo đảm an toàn và bí mật của email công việc.

Ví dụ 4: Trên các trang mạng xã hội ngày nay, xuất hiện nhiều bài đăng trong các hội nhóm mời chào người dùng trả phí để có thể xem lén và nghe lén nội dung tin nhắn trên các ứng dụng như Messenger, Zalo của người khác. Đây là hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật, cả những đối tượng mời chào dịch vụ và người thuê họ để đọc trộm tin nhắn đều xâm phạm quyền được bảo đảm an toàn và bí mật thư tín của công dân.

Ví dụ 5: Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, đa số người dùng điện thoại thông minh thường cài đặt các ứng dụng phục vụ cho công việc, giải trí, hoặc vui chơi. Tuy nhiên, một số ứng dụng không được cung cấp bởi Nhà nước như các ứng dụng chụp ảnh, game, đọc truyện yêu cầu người dùng cho phép truy cập vào danh bạ và file ảnh. Nếu không cẩn thận, người dùng có thể bị đánh cắp thông tin cá nhân. Hành động này là vi phạm quyền được bảo đảm an toàn và bí mật thư tín của công dân.

Nhìn chung, những hành vi trên không chỉ xâm phạm quyền tự do cơ bản của công dân mà còn là dạng hành vi thiếu văn minh. Những người thực hiện hành vi xâm phạm này có thể mất niềm tin của người khác khi bị phát hiện.

Bài viết liên quan: Bí mật thư tín là gì ? Khái niệm bí mật thư tín ? 

Luật Minh Khuê xin tiếp nhận yêu cầu tư vấn của quý khách hàng qua số hotline: 1900.6162 hoặc qua email: lienhe@luatminhkhue.vn. Xin trân trọng cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm theo dõi nội dung bài viết!