Mục lục bài viết
1. Quyền con người
Nhân quyền (hay quyền con người; tiếng Anh: human rights) là những quyền tự nhiên của con người và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên Hiệp Quốc, nhân quyền là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những tự do cơ bản của con người. Trong bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, Thomas Jefferson đã đưa ra một nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho sự thành lập chính phủ dân chủ. Các chính phủ trong thể chế dân chủ không ban phát các quyền tự do cơ bản mà Jefferson đã nêu, mà chính các chính phủ đó để bảo vệ các quyền tự do đó – các quyền mà mọi cá nhân "hiển nhiên có" do sự tồn tại của mình.
Như vậy, có thể khái quát, quyền con người là các đặc quyền tự nhiên, bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của tất cả mọi người, được cộng đồng quốc tế và quốc gia thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế.
2. Nguồn gốc của quyền con người
- Nguồn gốc tự nhiên
Những người theo học thuyết về quyền tự nhiên (natural rights) ‐ tiêu biểu là các tác giả như Zeno (333‐264 TCN), Thomas Hobbes (1588‐1679), John Locke (1632‐ 1704), Thomas Paine (1731‐1809)... cho rằng quyền con người là bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng vì họ là thành viên của nhân loại.
Các quyền con người không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ ai, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào; và không một chủ thể nào, kể cả các nhà nước, có thể ban phát hay tùy tiện tước bỏ các quyền con người.
- Nguồn gốc pháp lý
Những người theo học thuyết về các quyền pháp lý (legal rights) gồm Edmund Burke (1729‐1797), Jeremy Bentham (1748‐1832)..., cho rằng quyền con người phải do các nhà nước quy định trong pháp luật; và như vậy, phạm vi, giới hạn và ở góc độ nhất định, cả thời hạn hiệu lực của các quyền con người phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị và những yếu tố như phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa... của từng xã hội.
Trong bộ luật quyết tế về quyền con người, Liên Hiệp quốc đã, một mặt thừa nhận quyền con người bao gồm các quyền tự nhiên, bẩm sinh không phụ thuộc vào sự ban phát hay tước đoạt của nhà nước; mặt khác, quyền con người là một quan hệ pháp lý, được bảo vệ thông qua pháp luật.
- Nguồn gốc xã hội
Về mặt lịch sử, quyền con người được nhận thức và được thúc đẩy do thực tiễn bị áp bức, bóc lột và bị tước đoạt về quyền trong các xã hội có giai cấp. Như vậy, quyền con người chỉ tồn tại trong xã hội có giai cấp và chỉ mất đi khi các giai cấp và điều kiện tồn tại giai cấp không còn; do đó, quyền con người là một phạm trù lịch sử.
Quyền con người bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của con người. Chính phẩm giá con người làm nảy sinh những nhu cầu về quyền. Nhưng chỉ khi nào những nhu cầu về quyền này được xã hội thừa nhận và bảo vệ mới trở thành quyền. Với cách hiểu này, quyền con người sẽ tồn tại mãi mãi, gắn liền với sự tồn tại của con người và phát triển cùng với tiến trình văn minh nhân loại.
3. Vi phạm nhân quyền
Cho dù con người có hiểu về nhân quyền cũng không chắc đã hiểu vi phạm nhân quyền là gì? Nhân quyền theo nghĩa hẹp là những quyền lợi quy định trong Hiến pháp nhưng theo nghĩa rộng là toàn bộ những điều kiện cần thiết đảm bảo cho việc có thể sống đúng với bản thân mình, hoặc sống như một con người. Vì thế việc phủ định, tước đoạt những điều kiện cần thiết này, uy hiếp sự sinh tồn đúng nghĩa một con người và lối sống đúng với bản thân mình chính là vi phạm nhân quyền.
Nhưng cụ thể những hành vi nào là vi phạm nhân quyền? Vi phạm nhân quyền trực tiếp nhất là sự lạm dụng quyền cảnh sát, quyền hình phạt để bắt giữ, ngược đãi người dân bất hợp pháp, ngược đãi và còn có thể cướp đi mạng sống của họ. Đó là sự phủ định sự sinh tồn của con người, vì thế đây là sự vi phạm nhân quyền lớn nhất.
Vi phạm nhân quyền như vậy thường xảy ra trong các chế độ quân chủ độc tài, dưới thời phong kiến hay thực dân, khi nhà nước sử dụng bộ máy của mình để cai trị, thông trị chứ không phải để phục vụ nhân dân. Những loại vi phạm quyền trực tiếp như vậy không còn xảy ra trong các nhà nước dân chủ, của dân, do dân và vì dân. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là trong các chế độ dân chủ không còn có sự vi phạm nhân quyền từ nhà nước. Một khi nhà nước hiểu rõ một hiện tượng là vi phạm quyền con người nhưng lại không có biện pháp xử lý kịp thời và công minh nhằm bảo đảm quyền cho các bên có liên quan, hoặc không tạo điều kiện đầy đủ cho người dân được hưởng các quyền cơ bản và chính đáng của mình đều được coi là sự vi phạm quyền con người. Ví dụ, sau khi xác định rõ sự không lây nhiễm của một căn bệnh (bệnh phong) nhưng vẫn thực hiện chính sách cách ly lâu dài của xã hội đối với người mắc bệnh; hoặc buộc những người bệnh tâm thần phải điều trị lâu dài trong bệnh viện... cũng có thể coi là vi phạm quyền con người.
Khi dân chủ phát triển đến mức độ nào đó, sự vi phạm quyền con người trực tiếp và rõ ràng dần dần sẽ không còn nữa, thay vào đó sẽ là những vấn đề liên quan đến quyền xã hội, tức là vấn đề nhà nước có trách nhiệm quan tâm đầy đủ để bảo vệ sự sinh tồn theo đúng nghĩa con người cho người dân. Ví dụ, trước nguy cơ lây nhiễm HIV qua đường truyền máu, nếu nhà nước không có biện pháp đối phó hữu hiệu thì kết quả sẽ nảy sinh mối lo sợ bị lây nhiễm, gây mất an toàn trong đời sống xã hội nói chung và trong chữa trị nói riêng (một trong những yếu tố của an ninh con người), làm tổn hại tới sự sinh tồn theo đúng nghĩa con người và vì thế cũng là vi phạm nhân quyền.
4. Phân biệt đối xử về mặt luật pháp là vi phạm nhân quyền
Vấn đề đối xử với một bộ phận dân cư thiếu bình đẳng, tức là sự phân biệt đối xử cũng là một vấn đề vi phạm quyền con người. Ví dụ, ở Nhật Bản, con cái của những người có quan hệ kết hôn và con cái của những người không có quan hệ kết hôn về mặt luật pháp có sự khác nhau trong quyền thừa kế tài sản. Sự phân biệt về quyền thừa kế này trước đây được coi là chế độ hợp lý bảo vệ quan hệ kết hôn theo luật pháp. Tuy nhiên, nếu suy nghĩ sâu hơn, thì rõ ràng những đứa con không có trách nhiệm gì với quan hệ của bố mẹ. Như vậy, việc áp đặt sự đối xử phân biệt một phía cho những đứa con ngoài giá thú là bất hợp lý. Vì thế, nhiều nhà nghiên cứu luật pháp Nhật Bản cho rằng, đây là chế độ đối xử vi phạm quyền con người. Hoặc ở Việt Nam, chế độ tuổi về hưu khác nhau giữa nam và nữ được lý giải rằng đó là nhằm ưu tiên đối với nữ, và cũng là vì bình đẳng giới. Điều đó đối với những người muốn nghỉ hưu sớm thì không có vấn đề gì, nhưng đối với những người muôn tiếp tục làm việc thì rõ ràng chế độ này không vì phụ nữ mà ngược lại là một sự phân biệt đối xử về giới, là sự vi phạm quyền có việc làm bình đẳng giữa nam và nữ.
5. Vi phạm nhân quyền giữa các cá nhân
Trong xã hội hiện đại ngày nay, những chủ thể vi phạm nhân quyền không chỉ là nhà nước, mà giữa các cá nhân cũng rất nghiêm trọng. Những hành vi ngược đãi trong gia đình và trong tổ chức như đối xử tàn bạo với trẻ em, với người cao tuổi, với nhân viên hoặc bạo lực trong gia đình cũng là những vi phạm nhân quyển hết sức nghiêm trọng. Cho dù là hành vi của nhà nước hay cá nhân thì việc phủ định nhân tính bằng bạo lực hoặc làm tổn thương người khác rõ ràng đều là vi phạm nhân quyền. Ngay trong trường hợp có sự vi phạm giữa các cá nhân thì trách nhiệm của nhà nước vẫn được chỉ ra rằng, nếu biết rõ về những hiện tượng bạo lực này đang lan rộng mà không có biện pháp giải quyết, xử lý và ngăn chặn nhằm bảo vệ quyền an toàn (an ninh con người khỏi nỗi sợ hãi) cho công dân thì cũng là vi phạm nhân quyền.
Hơn nữa, như đã nói ở trên, những hành vi phân biệt đối xử cũng được coi là hành vi vi phạm nhân quyền. Hình thái phân biệt đối xử rất đa dạng, đôi khi ranh giới giữa bình đẳng và bất bình đẳng rất khó xác định, nhưng trong những phân biệt đối xử (vi phạm quyền con người) ở phạm vi cá nhân thì chìa khoá của vấn đề là xem xét xem hành vi đó có phủ định tính người hoặc tính riêng tư của cá nhân hay không. Điểu này có thể sẽ trở nên rõ ràng hơn qua hành động “quấy rối” (harassment) thường thấy trong cuộc sống hàng ngày. Trong cuộc sống, nhất là ở nơi làm việc, nói đùa, trêu trọc thường được coi là nhằm làm cho quan hệ suôn sẻ và thuận lợi hơn (dầu bôi trơn quan hệ). Vì vậy, người ta thường không để ý đến việc, đôi khi nội dung câu nói đùa quá đà xúc phạm đến đối phương mà vẫn không bị coi là nghiêm trọng như vi phạm quyền con người. Tuy nhiên ngày nay, ở nhiều nước, những hành vi trêu chọc bị coi là phân biệt đối xử dưới tên gọi là “quấy rối về giổi”, được định nghĩa là những hành vi và lời nói về giới tính mà đối phương không mong muốn, đương nhiên cũng bị coi là vi phạm quyền con người.
Trong bối cảnh của nhiều trường hợp vi phạm quyền con người, như trong trường hợp quấy rối về giới, có sự dán nhãn từ một phía. Có thể thấy có vô vàn ví dụ về việc thu hẹp thang lựa chọn lối sống, mang tính quy kết cho người khác, trong việc dán nhãn cho họ, kiểu như vì là con gái nên cần phải, vì là người khuyết tật nên đương nhiên là, vì là trẻ con, vì là người thiểu số, miền núi. Việc dán nhãn vô lý như vậy chính là nguyên nhân quan trọng của rất nhiều vi phạm quyền bắt nguồn từ sự phân biệt đối xử. Do đó, để hạn chế sự vi phạm quyền con người, cần phải bóc đi từng lớp, từng lốp nhãn mác vô lý được dán khắp nơi trong thế giới hiện thực, nhằm xây dựng một xã hội trong đó tất cả mọi người có thể yên tâm sống đúng với mình (mà không sợ bị dán nhãn). Bởi được sống đúng với bản thân chính là một bước quan trọng bảo đảm quyền con người.
LUẬT MINH KHUÊ (Sưu tầm & Biên tập)