1. Thế nào là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự?

Các yếu tố gia tăng trách nhiệm hình sự trong một vụ án chỉ làm thay đổi mức độ nguy hiểm của tội phạm trong vụ án đó, không thay đổi bản chất của tội phạm. Mặc dù có yếu tố gia tăng trách nhiệm hình sự, người phạm tội không bị xử phạt với hình phạt cao hơn mức cao nhất trong khung hình phạt được quy định. Vì vậy, nếu bị cáo bị kết án với tội cơ bản và có yếu tố gia tăng, toà án không thể áp dụng hình phạt cao hơn theo quy định cho tội phạm có yếu tố gia tăng nghiêm trọng hơn trong điều luật. Các yếu tố gia tăng trách nhiệm hình sự được đề cập tại Điều 52 của Bộ Luật Hình sự năm 2015.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ Luật Hình sự, chỉ có 15 tình tiết sau đây được xem là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Phạm tội có tổ chức; phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; phạm tội có tính chất côn đồ; phạm tội vì động cơ đê hèn; cố tình thực hiện tội phạm đến cùng; phạm tội 02 lần trở lên; tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên; phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác; lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội; dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội; dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội; xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội; có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.

Những yếu tố gia tăng trách nhiệm hình sự có nội dung và ý nghĩa khác nhau, dẫn đến việc áp dụng mức độ trách nhiệm khác nhau đối với người bị kết án. Ví dụ, người tái phạm nguy hiểm sẽ phải chịu trách nhiệm cao hơn so với người tái phạm thông thường; người phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng sẽ có trách nhiệm cao hơn so với người gây hậu quả nghiêm trọng.

2. Vô ý phạm tội với phụ nữ có thai có tính là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự?

Tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự là các yếu tố có ảnh hưởng đến mức độ trách nhiệm pháp lý trong một vụ vi phạm cụ thể, làm giảm hoặc tăng lên so với mức trách nhiệm thông thường. Điều này đặt ra yêu cầu quan trọng trong việc giải quyết các vụ án hình sự, cần xác định chính xác các yếu tố tăng giảm trách nhiệm pháp lý, từ đó cung cấp cơ sở cho Tòa án đưa ra quyết định về mức độ phạt phù hợp với mức độ nguy hiểm đối với xã hội của hành vi vi phạm, và cũng phù hợp với cá nhân và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội.

Vi phạm liên quan đến phụ nữ đang mang thai được coi là một yếu tố nghiêm trọng trong hệ thống trách nhiệm hình sự, theo Điều 52, Khoản 1 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi và bổ sung vào năm 2017). Điều này áp dụng khi xét xử các trường hợp liên quan đến "vi phạm với người dưới 16 tuổi, phụ nữ đang mang thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên", khi đó, cơ quan tư pháp không cần quan tâm đến việc bị cáo nhận biết người bị hại có phải là phụ nữ mang thai hay không.

Tuy nhiên, theo hướng dẫn của Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12 tháng 05 năm 2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao (tuy đã hết hiệu lực nhưng có thể mang tính tham khảo), chỉ áp dụng tình tiết "vi phạm với trẻ em, phụ nữ mang thai, người già" trong các trường hợp phạm tội có tính chất cố ý, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của bị cáo có nhận biết được hoặc không nhận biết được người bị xâm hại là trẻ em, phụ nữ mang thai, người già.

Ngoài ra, việc vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ được xem là vi phạm vô ý. Theo Điều 11 của Bộ luật Hình sự, việc vi phạm này được xác định như sau:

Vi phạm vô ý là khi:

  - Người vi phạm có nhận thức trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể được ngăn chặn;

  - Người vi phạm không nhận thức trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải nhận thức và có thể nhận thức được hậu quả đó.

Vì vậy, trong trường hợp vi phạm vô ý, quy định về tình tiết nghiêm trọng "vi phạm với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mang thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên" tại Điều 52, Khoản 1 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được điều chỉnh và bổ sung vào năm 2017) sẽ không được áp dụng.

3. Những trường hợp cần lưu ý khi áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

Theo quy định của Điều 52 trong Bộ Luật Hình sự 2015, các yếu tố đã được quy định trong luật này làm căn cứ để xác định tội danh hoặc khung hình phạt không được coi là những yếu tố làm tăng nặng trách nhiệm hình sự. Vì vậy, khi xét xử trường hợp áp dụng yếu tố làm tăng nặng trách nhiệm hình sự, cần lưu ý các trường hợp sau:

- Trường hợp mà kết án bị cáo về một tội phạm cụ thể mà yếu tố làm tăng nặng đã được xem xét là yếu tố quyết định tội, thì không áp dụng thêm yếu tố tăng nặng trách nhiệm hình sự tương ứng theo quy định tại Điều 52 của Bộ Luật Hình sự. Ví dụ: Khi một người bị kết án về hành vi tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại theo quy định của Điều 187, thì Tòa án không áp dụng thêm điều khoản a (hành vi có tổ chức) tại Điều 52 để xác định hình phạt.

- Trường hợp mà kết án bị cáo về một tội phạm cụ thể theo yếu tố tăng nặng định khung hình phạt, mà yếu tố này cũng được BLHS quy định là yếu tố tăng nặng trách nhiệm hình sự, thì không áp dụng thêm yếu tố tăng nặng trách nhiệm hình sự tương ứng theo quy định tại Điều 52 của BLHS. Ví dụ: Khi kết án một người về tội cướp tài sản theo điểm a (hành vi có tổ chức), b (hành vi có tính chất chuyên nghiệp), h (hành vi tái phạm nguy hiểm) hoặc điểm e (phạm tội đối với nhóm người nhất định) của Điều 168 BLHS, thì Tòa án không áp dụng thêm điều khoản a, b, h hoặc i của Điều 52 để xác định hình phạt.

- Trường hợp mà kết án bị cáo về một tội phạm cụ thể theo yếu tố tăng nặng định khung hình phạt (ở mức nặng hơn) mặc dù họ cũng phạm tội trong trường hợp có yếu tố tăng nặng định khung ở mức nhẹ hơn và yếu tố nhẹ hơn cũng được BLHS quy định là yếu tố tăng nặng trách nhiệm hình sự, thì không áp dụng thêm yếu tố tăng nặng trách nhiệm hình sự tương ứng theo quy định tại Điều 52 của BLHS.

Ví dụ, nếu một người bị kết án về tội cướp tài sản theo quy định tại điểm c (lợi dụng thiên tai, dịch bệnh - một yếu tố tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm l của khoản 1 Điều 52 BLHS) theo khoản 3 Điều 168 BLHS và đồng thời trong vụ án, bị cáo có các yếu tố tăng nặng định khung hình phạt theo quy định của khoản 2 Điều luật này (như tổ chức, tính chất chuyên nghiệp, hành vi đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mang thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ và tái phạm nguy hiểm), thì Tòa án cũng không áp dụng thêm điều khoản a, b, h hoặc i của khoản 1 Điều 52 BLHS để xác định hình phạt cho họ.

Bài viết liên quan: Khi căn cứ vào các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt cần lưu ý gì?

Luật Minh Khuê xin tiếp nhận yêu cầu tư vấn của quý khách hàng thông qua số hotline: 1900.6162 hoặc email: lienhe@luatminhkhue.vn. Xin trân trọng cảm ơn!