1. Vùng biển Việt Nam gồm những vùng nào?

Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật Biển Việt Nam năm 2012, vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam được phân chia thành các khu vực cụ thể như sau:

- Nội thủy: Đây là vùng biển nằm hoàn toàn trong đường cơ sở, bao gồm các vịnh, cảng, sông, và hồ nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của Việt Nam.

- Lãnh hải: Đây là dải biển rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở, trong đó Việt Nam có quyền chủ quyền và quyền tài phán đầy đủ, bao gồm quyền kiểm soát giao thông và khai thác tài nguyên.

- Vùng tiếp giáp lãnh hải: Vùng biển nằm ngoài lãnh hải, rộng thêm 12 hải lý nữa, nơi Việt Nam có quyền thực thi các biện pháp cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự và vệ sinh biển.

- Vùng đặc quyền kinh tế: Đây là khu vực rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở, trong đó Việt Nam có quyền chủ quyền đặc biệt về việc khai thác và quản lý tài nguyên sinh vật và phi sinh vật dưới đáy biển và trong nước biển.

- Thềm lục địa: Vùng biển bao gồm phần đáy biển và lớp đất dưới đáy biển kéo dài ra ngoài lãnh hải, nơi Việt Nam có quyền chủ quyền để khai thác tài nguyên thiên nhiên.

Các vùng biển nêu trên đều thuộc quyền chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam. Việc xác định các vùng biển này được thực hiện theo các quy định của pháp luật Việt Nam, các điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, đồng thời tuân thủ các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.

 

2. Chế độ pháp lý của các vùng thuộc vùng biển Việt Nam

2.1 Nội thủy

Theo quy định tại Điều 9 của Luật Biển Việt Nam năm 2012, nội thủy là khu vực nước tiếp giáp với bờ biển, nằm hoàn toàn bên trong đường cơ sở. Khu vực này được coi là một phần không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Đường cơ sở để xác định chiều rộng của lãnh hải Việt Nam là đường cơ sở thẳng do Chính phủ công bố. Đường cơ sở này được xác định và công bố bởi Chính phủ cho các khu vực chưa có đường cơ sở rõ ràng, sau khi nhận được sự phê chuẩn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Chế độ pháp lý của nội thủy: Nhà nước Việt Nam thực thi quyền chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và toàn diện đối với vùng nội thủy, tương tự như quyền đối với lãnh thổ đất liền. Điều này có nghĩa là Nhà nước có toàn quyền quản lý, kiểm soát và thực hiện các quyền về an ninh, trật tự, cũng như khai thác và sử dụng tài nguyên trong khu vực nội thủy, bảo đảm sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.

 

2.2 Lãnh hải

Theo quy định tại Điều 11 của Luật Biển Việt Nam năm 2012, lãnh hải** được xác định là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra phía biển. Ranh giới ngoài của lãnh hải chính là biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam.

Chế độ pháp lý của lãnh hải: - Nhà nước Việt Nam thực thi quyền chủ quyền đầy đủ và toàn diện đối với lãnh hải, bao gồm cả vùng trời, đáy biển và lớp đất dưới đáy biển của lãnh hải, hoàn toàn phù hợp với các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.

- Tất cả các tàu thuyền của các quốc gia khác đều được quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải của Việt Nam. Tuy nhiên, đối với các tàu quân sự nước ngoài, khi thực hiện quyền đi qua không gây hại, cần phải thông báo trước cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.

- Việc đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài phải được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng hòa bình, độc lập và chủ quyền của Việt Nam, cũng như các quy định pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

- Các phương tiện bay nước ngoài không được phép vào vùng trời trên lãnh hải Việt Nam, trừ khi có sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam hoặc khi thực hiện theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

- Nhà nước Việt Nam có quyền chủ quyền đối với tất cả các hiện vật khảo cổ và lịch sử có trong lãnh hải, bảo đảm việc bảo tồn và quản lý các di sản văn hóa quan trọng này.

 

2.3 Vùng tiếp giáp lãnh hải

Vùng tiếp giáp lãnh hải, theo quy định tại Điều 13 của Luật Biển Việt Nam năm 2012, là khu vực biển tiếp nối ngay sát bên ngoài lãnh hải của Việt Nam. Vùng này có chiều rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải.

Chế độ pháp lý của vùng tiếp giáp lãnh hải:

- Nhà nước Việt Nam thực thi quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và các quyền hạn khác theo quy định tại Điều 16 của Luật Biển Việt Nam năm 2012 đối với vùng tiếp giáp lãnh hải. Điều này bao gồm việc quản lý và bảo vệ khu vực này theo các quy định pháp lý hiện hành.

- Trong khu vực tiếp giáp lãnh hải, Nhà nước có trách nhiệm thực hiện các biện pháp kiểm soát để phòng ngừa và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến hải quan, thuế, y tế, và xuất nhập cảnh. Điều này nhằm đảm bảo rằng các hoạt động trái phép không xâm phạm vào lãnh thổ hoặc lãnh hải của Việt Nam.

 

2.4 Vùng đặc quyền kinh tế

Theo quy định tại Điều 15 của Luật Biển Việt Nam năm 2012, vùng đặc quyền kinh tế là khu vực biển mở rộng ra ngoài lãnh hải của Việt Nam, với tổng chiều rộng lên tới 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Vùng này tiếp liền với lãnh hải, tạo thành một dải biển rộng lớn, bao gồm cả phần nước biển trên đáy biển và lớp đất dưới đáy biển.

Chế độ pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế:

- Trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế, Nhà nước Việt Nam thực thi các quyền sau đây:

+ Quyền chủ quyền: Nhà nước có quyền thực hiện thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên nằm trong vùng nước trên đáy biển, đáy biển và lớp đất dưới đáy biển. Điều này bao gồm các hoạt động kinh tế nhằm khai thác và sử dụng tài nguyên trong khu vực này.

+ Quyền tài phán quốc gia: Nhà nước có quyền lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển, cũng như thực hiện nghiên cứu khoa học về biển và bảo vệ môi trường biển.

+ Quyền và nghĩa vụ khác: Nhà nước thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật quốc tế, nhằm bảo đảm sự tuân thủ và bảo vệ lợi ích quốc gia trên biển.

- Nhà nước Việt Nam tôn trọng quyền tự do hàng hải và hàng không, quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm, cũng như các hoạt động hợp pháp khác của các quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Những hoạt động này phải tuân thủ quy định của Luật Biển Việt Nam năm 2012 và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, không được xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam trên biển.

- Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm trong vùng đặc quyền kinh tế phải được sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.

- Các tổ chức và cá nhân nước ngoài có thể tham gia vào các hoạt động thăm dò, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, cũng như lắp đặt thiết bị và công trình trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, dựa trên các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, các hợp đồng được ký kết theo quy định pháp luật Việt Nam, hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam, đồng thời phải tuân thủ các quy định của pháp luật quốc tế liên quan.

- Các quyền liên quan đến đáy biển và lớp đất dưới đáy biển trong vùng đặc quyền kinh tế được thực hiện theo các quy định tại Điều 17 và Điều 18 của Luật Biển Việt Nam năm 2012.

 

2.5 Thềm lục địa

Theo quy định tại Điều 17 của Luật Biển Việt Nam năm 2012, thềm lục địa là khu vực bao gồm đáy biển và lớp đất dưới đáy biển, tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải của Việt Nam. Khu vực này bao phủ toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền, các đảo và quần đảo của Việt Nam, mở rộng cho đến mép ngoài của rìa lục địa.

  • Nếu mép ngoài của rìa lục địa nằm cách đường cơ sở chưa đủ 200 hải lý, thềm lục địa sẽ được kéo dài đến tận khoảng cách 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
  • Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở, thềm lục địa có thể được mở rộng không quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở, hoặc không vượt quá 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2.500 mét.

Chế độ pháp lý của thềm lục địa:

  • Nhà nước Việt Nam thực hiện quyền chủ quyền đối với thềm lục địa liên quan đến việc thăm dò và khai thác tài nguyên trong khu vực này. Quyền chủ quyền đối với thềm lục địa mang tính chất đặc quyền, tức là không ai có quyền thực hiện các hoạt động thăm dò hoặc khai thác tài nguyên của thềm lục địa nếu không có sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam.
  • Nhà nước có quyền quản lý và khai thác lòng đất dưới đáy biển của thềm lục địa, đồng thời có quyền cấp phép và quy định các hoạt động khoan, nhằm mục đích khác nhau trong khu vực này.
  • Nhà nước Việt Nam tôn trọng quyền của các quốc gia khác trong việc đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và thực hiện các hoạt động sử dụng biển hợp pháp trên thềm lục địa của Việt Nam. Tuy nhiên, các hoạt động này phải tuân thủ các quy định của Luật Biển Việt Nam năm 2012 và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, đồng thời không làm ảnh hưởng đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam.
  • Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm trong thềm lục địa phải được sự chấp thuận bằng văn bản từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
  • Các tổ chức và cá nhân nước ngoài có thể tham gia vào các hoạt động thăm dò, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, cũng như lắp đặt thiết bị và công trình trong thềm lục địa của Việt Nam, dựa trên các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, các hợp đồng được ký kết theo quy định pháp luật Việt Nam, hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam, với điều kiện các hoạt động này phải tuân thủ pháp luật quốc tế liên quan.

Tóm lại, trong hệ thống các vùng biển của Việt Nam, chỉ có hai vùng là nội thủy và lãnh hải thuộc quyền chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn của Việt Nam.