1. Thế nào là giám đốc thẩm?

Giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt nhằm xem xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, bị kháng nghị do phát hiện có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án.

2. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Theo quy định tại 371 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, phải có một trong những căn cứ sau: (i) Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; (ii)Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án; (iii)Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.

Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự của một số nước cho thấy họ quy định rất cụ thể các căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Điển hình như quy định tại Điều 381 BLTTHS Liên Bang Nga: “Những căn cứ để Tòa án cấp trên hủy bỏ hoặc sửa bản án, quyết định của Tòa án là những vi phạm luật tố tụng hình sự bằng cách tước bỏ hoặc hạn chế các quyền của những người tham gia tố tụng được Bộ luật này bảo đảm, không tuân thủ thủ tục tố tụng hoặc bằng cách khác ảnh hưởng hoặc có thể ảnh hưởng đến việc ra bản án đúng pháp luật, có căn cứ và công bằng”. Điều 592 BLTTHS của nước này quy định rõ những vi phạm thủ tục tố tụng dẫn đến bản án bị tuyên bố vô tội có thể là: Số lượng thẩm phán xét xử không theo đúng quy định của pháp luật hoặc có những Thẩm phán không tham gia tất cả các phiên tòa xét xử cùng một vụ án; nếu Tòa án ra quyết định mà không nghe Viện Công tố trình bày. Ngoài ra, nếu quyết định không được đưa ra tại phiên tòa công khai hoặc nếu việc xét hỏi, tranh luận không được tiến hành tại phiên tòa công khai thì quyết định sẽ bị vô hiệu, trừ những trường hợp ngoại lệ do pháp luật quy định.

3. Thủ tục chuyển hồ sơ vụ án để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Thủ tục chuyển hồ sơ vụ án để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm không được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003.

Điều 376 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định thủ tục chuyển hồ sơ vụ án để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Theo đó, nhằm bảo đảm cho việc kháng nghị nhanh chóng, kịp thời khắc phục các vi phạm pháp luật của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, điều luật quy định trường hợp cần thiết phải nghiên cứu hồ sơ vụ án để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì Tòa án, Viện kiểm sát nơi mà Chánh án, Viện trưởng có thẩm quyền kháng nghị yêu cầu bằng văn bản để Tòa án đang quản lý hồ sơ chuyển hồ sơ vụ án; trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu, Tòa án đang quản hồ sơ vụ án phải chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án, Viện kiểm sát đã yêu cầu.

Trường hợp Tòa án và Viện kiểm sát cùng có văn bản yêu cầu thì Tòa án đang quản lý hồ sơ vụ án chuyển hồ sơ cho cơ quan có yêu cầu trước và thông báo cho cơ quan yêu cầu sau biết.

Các điều 378, 379, 380, 381 đã sửa đổi, bổ sung và cơ cấu lại các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thời hạn, thủ tục kháng nghị và gửi kháng nghị; hình thức quyết định kháng nghị; việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị và việc tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

4. Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm

Theo quy định của Bộ luật TTHS 2015, thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm đã được mở rộng hơn so với Bộ luật TTHS 2003. Cụ thể, ngoài các thẩm quyền: không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị; hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại; hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án, Hội đồng giám đốc thẩm còn có quyền hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm bị hủy, sửa không đúng pháp luật; sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ xét xử giám đốc thẩm. Mặc dù một số thẩm quyền mới được quy định nhưng đã có những bất cập, cụ thể như sau:

Thứ nhất, thẩm quyền “hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại”.

Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng, không quy định việc hủy bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án để truy tố lại là chưa phù hợp. Truy tố là một giai đoạn độc lập trong TTHS. Về bản chất, quá trình điều tra để phục vụ cho việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Giai đoạn này vừa kiểm tra, đánh giá tính đúng đắn, hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu thu thập được trong quá trình điều tra, vừa quyết định có truy tố bị can ra trước Tòa án hay không. Vụ án chỉ được đưa ra xét xử khi Viện kiểm sát quyết định truy tố. Cáo trạng hay quyết định truy tố bị can là cơ sở để Tòa án đưa vụ án ra xét xử và ban hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Trên thực tế, có những trường hợp, kháng nghị giám đốc thẩm là do vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong giai đoạn truy tố như truy tố sai thẩm quyền nhưng Tòa án không phát hiện ra, vẫn xét xử và ra bản án, quyết định. Trường hợp này, mặc dù quyết định hủy bản án, quyết định của Tòa án để điều tra lại cũng có thể dẫn đến việc truy tố lại (trừ trường hợp đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án) nhưng việc quyết định điều tra lại không xác định chính xác giai đoạn có vi phạm, sai lầm nghiêm trọng. Mặt khác, thời hạn điều tra luôn dài hơn thời hạn truy tố. Nếu sai lầm ở giai đoạn truy tố mà phải điều tra lại sẽ dẫn đến việc kéo dài thời gian giải quyết vụ án, cơ quan điều tra phải thực hiện lại những việc đáng lẽ không cần phải làm.

Thứ hai, thẩm quyền “sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật”.

Có quan điểm cho rằng quy định Hội đồng giám đốc thẩm có thẩm quyền sửa bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là không hợp lý, không đúng với bản chất “phá án” của giám đốc thẩm. Bởi vì giám đốc thẩm không phải một cấp xét xử. Đối tượng của giám đốc thẩm là các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Khi có kháng nghị, Hội đồng giám đốc thẩm sẽ xem xét, đánh giá các bản án, quyết định này có vi phạm pháp luật hay không, mức độ vi phạm như thế nào để đưa ra cách thức giải quyết. Việc khắc phục vi phạm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới không phải là mục đích chính của giám đốc thẩm bởi vì có những trường hợp sai lầm của Tòa án cấp dưới là không thể khắc phục vì hết thời hiệu. Chẳng hạn, trong bản án phúc thẩm của Tòa án có hiệu lực pháp luật, bị cáo bị xử phạt quá nhẹ và cho hưởng án treo không đúng quy định; ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn sai lầm trong việc xác định trách nhiệm dân sự của bị cáo. Hết thời hạn 01 năm, những vi phạm này mới bị phát hiện. Trường hợp này, vi phạm về áp dụng hình phạt của Tòa án là không thể khắc phục.

Việc quy định Hội đồng giám đốc thẩm có thể sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm không chỉ kiểm tra tính hợp pháp của các bán án, quyết định của Tòa án cấp dưới mà còn trực tiếp xét xử về nội dung vụ án, biến giám đốc thẩm thành một cấp xét xử thứ ba, có những đặc điểm gần giống như xét xử phúc thẩm. Báo cáo đánh giá tác động của dự thảo Bộ luật TTHS sửa đổi của Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng cho rằng quy định này “không phù hợp với nguyên tắc chế độ hai cấp xét xử; thậm chí, có thể sẽ làm cho Hội đồng giám đốc thẩm trở thành cấp xét xử thứ ba. Như vậy là không phù hợp với tính chất của xét xử giám đốc thẩm”

Mặt khác, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm bởi vì khi xét xử phúc thẩm, bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị nên chưa có hiệu lực pháp luật. Các bản án, quyết định của Tòa án được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm là các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Các bản án, quyết định này mang tính quyền lực Nhà nước sâu sắc, thể hiện trực tiếp thái độ của Nhà nước đối với tội phạm và người phạm tội. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có tính bắt buộc đối với các bên có liên quan và với mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội. Các hành vi cố ý không thi hành án hay cản trở việc thi hành án có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc quy định Hội đồng giám đốc thẩm có quyền sửa bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là trái với nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm của Bộ luật TTHS và các quy định về bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án.

5. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục Giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự

Theo Điều 379 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được quy định như sau:

Nếu kháng nghị theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được tiến hành trong hạn 01 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.

Nếu kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án có thể được tiến hành bất cứ lúc nào, cả trong trường hợp người bị kết án chết mà cần minh oan cho họ.

Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với đương sự được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

Nếu không có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì người có quyền kháng nghị phải trả lời bằng văn bản cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã kiến nghị biết rõ lý do của việc không kháng nghị.

LUẬT MINH KHUÊ (Sưu tầm & Biên tập)