Biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế được ghi nhận tại Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc: Các biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động tư pháp, xét xử

1. Trọng tài quốc tế:

a. Khái niệm:

 

Trọng tài quốc tế là một thiết chế giải quyết tranh chấp quóc tế mà thẩm quyền được xác lập trên cơ sở thỏa thuận, thông qua thủ tục xét xử để đưa ra một phán quyết có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các bên tranh chấp:

b. Thẩm quyền của trọng tài quốc tế:

- Thẩm quyền của trọng tài quốc tế xuất phát từ sự thỏa thuận của các bên tranh chấp

- Việc kí kết thỏa thuận trọng tài phải tôn trọng sự bình đẳng và tự nguyện của các bên. Giá trị pháp lí của thỏa thuận trọng tài được xem xét giống như khi xem xét giá trị pháp lí của một điều ước quốc tế

- Thông thường, trọng tài chỉ giải quyết các tranh chấp pháp lí. Tuy nhiên, cũng không loại trừ khả năng trọng tài có thể được các bên yêu cầu giải quyết một tranh chấp chính trị. Trong trường hợp đó, trọng tài có thể dựa trên nguyên tắc công bằng, để giải quyết tranh chấp

c. Cách thức tổ chức của trọng tài quốc tế:

- Có 2 hình thức tổ chức là: trọng tài vụ việc và trọng tài thường trực:

+  Trong trọng tài vụ việc, việc lựa chọn trọng tài viên, thành lập hội đồng trọng tài, xác định các quy định tố tụng trọng tài hoan toàn phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên

+  Trong trọng tài thường trực, các vấn đề này được quy định trong điều lệ, quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài.

- Thiết chế trọng tài quốc tế thường trực tiêu biểu nhất là Tòa trọng tài thường trực có trụ sở tại La Haye. Tòa trọng tài La Haye không có cơ quan xét xử thường trực nào, mà thay vào đó là danh sách các trọng tài viên được chỉ định bởi các quốc gia thành viên của các công ước La Haye năm 1899 và năm 1907.

- Một thiết chế trọng tài quốc tế thường trực khác là Tòa trọng tài quốc tế về luật biển. Tòa trọng tài quốc tế về Luật biển là một trong những cơ quan trọng tài, tòa án có thể được các nước thành viên công ước Luật biển 1982 lựa chọn làm cơ quan giải quyết tranh chấp. Cũng như tòa trọng tài thường trực La Haye ; tòa trọng tài quốc tế về Luật biển không thực sự là một thiết chế thường trực. Thay vào đó là danh sách các trọng tài viên do các quốc gia thành viên đăng kí với Tổng Thư Kí Liên hợp quốc.

- Một hội đồng trọng tài luôn luôn có số lượng trọng tài viên ở số lẻ.

d. Tố tụng và giá trị phán quyết của trọng tài quốc tế:

- Các quy  tắc tố tụng của trọng tài quốc tế hoàn toàn do các quốc gia tranh chấp quyết định nếu đó là một hội đồng trọng tài vụ việc. Nếu vụ việc được giải quyết bởi một tổ chức trọng tài thường trực, hội dồng trọng tài áp dụng các quy tắc tố tụng quy định trong quy chế, điều lệ tố tụng của tổ chức trọng tài.

- Về nguyên tắc, các phán quyết của trọng tài quốc tế có giá trị trung thẩm

- Phán quyết của trọng tài quốc tế chỉ có hiệu lực ràng buộc đối với các bên trong tranh chấp đã chấp nhận thẩm quyền của trọng tài. Phán quyết của trọng tài quốc tế giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia chỉ được thực hiện dựa trên sự tự nguyện của các bên

- Việc một quốc gia không thực hiện phán quyết có hiệu lực của trọng tài được coi là hành vi vi phạm một nghĩa vụ pháp lí quốc tế

2. Tòa án công lý quốc tế của Liên hợp quốc (ICJ)

a. Về vị trí pháp lý:

Tòa án công lý quốc tế là một trong 6 cơ quan chính của Liên hợp quốc, được thành lập năm 1945 trên cơ sở kế thừa Tòa án Thường trực quốc tế của Hội quốc liên và hoạt động theo quy chế một bộ phận không tách rời của Liên hợp quốc

b. Tổ chức của tòa án:

- Gồm 15 thẩm phán độc lập, được bầu bởi đại hội đồng Liên hợp quốc trên cơ sở kiến nghị của Hội đồng Bảo an, với nhiệm kì 9 năm có thể tái nhiệm

- Thành phần Thẩm phán phải đảm bảo có đại diện của các hình thức văn minh chủ yếu và các hệ thống pháp luật cơ bản

- Thẩm phán của tòa án công lý quốc tế hoạt động độc lập, họ chỉ nhân danhh Toàn án công lý quốc tế chứ không nhân danh và khoog đại diện cho quốc gia mà họ là công dân

- Tòa án có ban thư kí đứng đầu là Chánh thư kí. Ban thư kí của tòa có trách nhiệm thực hiện các hoạt động có tính hành chính, tác nghiệp tư pháp của tòa

c. Thẩm quyền của Tòa án:

Tòa án công lý quốc tế có hai thẩm quyền chính là: giải quyết tranh chấp và cho ý kiến tư vấn. Ngoài ra, Tòa còn có các thẩm quyền phái sinh mang tính thủ tục như thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

* Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp:

- Tòa có thẩm quyền áp dụng luật pháp quốc tế để giải quyết tất cả các tranh chấp pháp lí giữa các quốc gia, nếu các quốc gia đồng ý với thẩm quyền của Tòa. Sự đồng ý chấp thuận thẩm quyền của Tòa của tất cả các bên tranh chấp là cơ sở pháp lí duy nhất để Tòa có thể xác lập thẩm quyền của mình đối với một tranh chấp cụ thể. Điều này hoàn toàn phù hợp với một trong những nguyên tắc quan trọng của luật pháp quốc tế: không một quốc gia nào bị buộc phải mang tranh chấp của mình với quốc gia khác ra cơ quan tào phán quốc tế để giải quyết khi không có sự đồng ý của quốc gia đó

-  Sự đồng ý của tất cả các bên tranh chấp có thể được thể hiện bằng nhiều cách như được quy định ở khoản 1-5 của Điều 36 Quy chế Tòa.

- Các quốc gia có thể chấp nhận thẩm quyền của Tòa thông qua việc tham gia vào điều ước quốc tế có quy định phải chấp nhận thẩm quyền của Tòa

-  Các quốc gia có thể tại bất kì thời điểm nào đưa ra tuyên bố chấp nhận thẩm quyền của Tòa

- Các quốc gia có kí kết thỏa thuận đặc biệt để chấp nhận thẩm quyền của Tòa đối với một tranh chấp cụ thể sau khi tranh chấp phát sinh.

* Về thẩm quyền cho ý kiến tư vấn:

-  Là thẩm quyền chỉ có ở các tòa án thường trực như Tòa ICJ mà không hề có ở các tòa trọng tài vụ việc

- Cơ sở pháp lí để Tòa ICJ có thẩm quyền cho ý kiến tư vấn là Điều 96 Hiến chương Liên hợp quốc và các quy định tại chương IV, từ Điều 65 đến Điều 68 Quy chế của Tòa án:

 

Điểu 65. 

1. Tòa án có thể có những kết luận tư vấn về một vấn đề pháp luật bất kỳ nào theo yêu cầu của một cơ quan bất kỳ được chính Hiến chương Liên hợp quốc hay theo đúng bản quy chế này, cho toàn quyền được yêu cầu.

2. Các vấn đề mà kết luận tư vấn của Tòa án được sửa chữa dựa theo nó, được trình lên Tòa án bằng đơn trình bày chính xác vấn đề để yêu cầu kết luận, kèm theo tất cả tài liệu có thể dùng để làm sáng tỏ vấn đề.

Điều 66. 

1. Thư ký Tòa án nhanh chóng báo tin về đơn có yêu cầu kết luận tư vấn cho tất cả các quốc gia có quyền tham gia vào Tòa án.

2.Ngoài ra, thư ký Tòa án bằng cách giữ đặc biệt và trực tiếp thông báo cho một quốc gia bất kỳ có quyền đến Tòa án cũng như cho một tổ chức quốc tế bất kỳ nào có thể (theo ý kiến của Chủ tịch Tòa án, nếu như Tòa án không họp) cung cấp những tin tức về vấn đề cụ thể nào đó, rằng Tòa án sẵn sàng nhận trong thời hạn Chủ tịch đã quy định, tất cả những tài liệu văn bản báo cáo bằng lời trong phiên họp công khai được triệu tập nhằm mục đích đó.

3. Nếu như quốc gia có quyền đến Tòa án không nhận được thông báo đặc biệt đã được nhắc nhở ở điểm 2 của điều này thì quốc gia đó có thể bày tỏ nguyện vọng được đệ trình bản báo cáo bằng văn bản hay được nghe Tòa án thông qua quyết định về các vấn đề đó.

4. Các quốc gia và các tổ chức đệ trình các bản báo cáo bằng văn bản hay bằng lời hay cả những quốc gia và những tổ chức này được phép thảo luận các bản báo cáo của các quốc gia hay các tổ chức khác ở hình thức, giới hạn và trong thời hạn do Tòa án hay nếu như Tòa án không họp, Chủ tịch Tòa án quy định trong từng trường hợp riêng biệt. Để đạt được mục đích này Thư ký Tòa án thông báo, trong thời hạn cần thiết, tất cả những bản báo cáo bằng văn bản đó cho các quốc gia và các tổ chức đã gửi những bản báo cáo tương tự.

Điều 67. Tòa án đưa ra kết luận tư vấn của mình trong phiên họp công khai đã được báo trước cho Tổng thư ký và các đại diện của các thành viên Liên hợp quốc trực tiếp có liên quan và cho đại diện của các quốc gia và các tổ chức quốc tế khác.

Điều 68. Trong khi thực hiện các chức năng tư vấn của mình. Tòa án, ngoài những điều đã nêu ra, lấy các phán quyết có liên quan đến các vụ việc tranh chấp trong quy chế này làm chủ đạo, ở mức độ mà Tòa án công nhận là chúng áp dụng được.

+ Đại hội đồng và Hội đồng Bảo an của Liên hợp quốc có quyền tự mình yêu cầu ý kiến tư vấn của tòa án. Trong trường hợp này, Tòa có thẩm quyền tư vấn về tất cả các vấn đề của luật quốc tế

+ Các cơ quan khác của Liên hợp quốc, các tổ chức quốc tế chuyên môn của Liên hợp quốc được yêu cầu ý kiến tư vấn của Tòa nếu có sự cho phép của Đại hội đồng.

- Mặc dù các cơ quan, tổ chức có quyền xin ý kiến tư vấn của Tòa, nhưng Tòa cũng có quyền từ chối không cho ý kiến tham vấn (trường hợp này rất hạn hữu). Việc từ chối này chỉ có thể khi Tòa xét thấy có lí do xác đáng để từ chối.

* Thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời:

- Thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định ở Điều 41 Quy chế Tòa. Theo Điều 41, Tòa có quyền đưa ra,nếu hoàn cảnh yêu cầu, bất kì biện pháp khẩn cấp tạm thời nào nhằm bảo đảm quyền của bất kì bên nào trong tranh chấp. tất cả các bên tranh chấp đều có quyền yêu cầu Tòa áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

- Điều kiện để Tòa áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời:

+ Tòa có thẩm quyền prima facie đối với vụ việc

+ Quyền mà bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo đảm phải ít nhất có cơ sở

+ Có mối liên hệ giữa quyền đó và biện pháp khẩn cấp tạm thời cụ thể được yêu cầu áp dụng

+ Thực sự có nguy cơ gây tổn hại không thể khắc phục đối với quyền của bên yêu cầu, và

+ Tình huống có tính khẩn cấp.

- Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có hiệu lực ràng buộc đối với các bên.

d. Quy tắc tố tụng của tòa án:

- Thủ tục tố tụng của Tòa được quy định rất chặt chẽ thể hiện trong Quy chế (chương III) và nội quy của Tòa án

- Việc giải quyết một vụ việc trước Tòa được thực hiện qua 2 giai đoạn tố tụng:

+ Giai đoạn tố tụng viết

+ Giai đoạn tranh tụng trước Tòa

- Trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp, Tòa có quyền hạn quyết định khá lớn liên quan đến các vấn đề tố tụng như: quyết định về thời hạn mà mỗi bên phải tuân thủ, quyết định biện pháp điều tra hay yêu cầu ý kiến chuyên gia, nhân chứng...

e. Phán quyết của Tòa án: 

  • Quyết định của Tòa án chỉ có giá trị bắt buộc đối với các bên trong vụ tranh chấp và có hiệu lực chung thẩm
  • Phán quyết của Tòa án chỉ có giá trị đối với vụ việc được giải quyết và chỉ có hiệu ực đối với các bên tranh chấp