1. Khái niệm quyền dân sự.

Quyền dân sự là nội dung của quan hệ pháp luật dân sự, trong mối sống sót đối sánh tương quan với nghĩa vụ và trách nhiệm dân sự, hay nói cách khác, nội dung của quan hệ pháp luật dân sự là tổng hợp những quyền và nghĩa vụ và trách nhiệm của những bên tham gia vào quan hệ đó. Quyền của một bên tương ứng với nghĩa vụ và trách nhiệm của bên kia để tạo thành mối liên hệ biện chứng, xích míc và thống nhất trong một quan hệ dân sự đơn cử. Nếu không có quyền của một bên thì cũng không có nghĩa vụ và trách nhiệm của bên kia và ngược lại.

Có thể hiểu quyền dân sự là khả năng được phép xử sự theo ý chí tự do trong khuôn khổ pháp luật của chủ thể trong quan hệ dân sự, phát sinh trong lĩnh vực dân sự để đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh thần của chính chủ thể. Quyền dân sự là quyền hiến định, đã được Hiến pháp ghi nhận và Nhà nước Việt Nam bảo hộ

2. Các căn cứ xác lập quyền dân sự.

Căn cứ xác lập quyền dân sự được quy định cụ thể tại Điều 8 Bộ luật dân sự 2015, cụ thể như sau:

“Quyền dân sự được xác lập từ các căn cứ sau đây:

1. Hợp đồng.

2. Hành vi pháp lý đơn phương.

3. Quyết định của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác theo quy định của luật.

4. Kết quả của lao động, sản xuất, kinh doanh; kết quả của hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ.

5. Chiếm hữu tài sản.

6. Sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.

7. Bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật.

8. Thực hiện công việc không có ủy quyền.

9. Căn cứ khác do pháp luật quy định.”

2.1 Hợp đồng.

Khái niệm về hợp đồng được giải thích tại Điều 385 là “sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.” Hợp đồng mang những đặc điểm cơ bản sau:

Hợp đồng là sự kiện pháp lý phổ biến nhất trong quan hệ dân sự được pháp luật dự liệu xảy ra trong thực tế sẽ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ dân sự và có những hậu quả pháp lý nhất định. Sự kiện thông thường khác sự kiện pháp lý ở chỗ: nó không làm phát sinh những hậu quả pháp lý nhất định và cũng không có sự tác động của các quy phạm pháp luật dân sự để hình thành một quan hệ dân sự.

 Phạm vi chủ thể của hợp đồng rất rộng lớn. Tùy từng lĩnh vực và ngành nghề khác nhau mà pháp luật giới hạn phạm vi chủ thể cho phù hợp để nhằm bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng. Thông thường, chủ thể của hợp đồng là các cá nhân, pháp nhân hay các tổ chức khác.

 Trong hợp đồng, ý chí của một bên đòi hỏi sự đáp lại của bên kia, tạo thành sự thống nhất ý chí của các bên, từ đó mới hình thành được hợp đồng. Ý chí đó phải xuất phát từ sự tự nguyện.

Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng luôn ngang bằng và bình đẳng nhau. Trong hợp đồng, quyền lợi của bên này có nghĩa đó là nghĩa vụ của bên còn lại và ngược lại nghĩa vụ của bên này chính là quyền của bên còn lại.

Hợp đồng có thể tồn tại dưới nhiều hình thức như văn bản ( bao gồm cả văn bản buộc công chứng, chứng thực); lời nói.

2.2 Hành vi pháp lý đơn phương.

Hành vi pháp lý đơn phương là căn cứ phát sinh nghĩa vụ theo quy định tại khoản 1 Điều 275 BLDS năm 2015. Hành vi pháp lý đơn phương là căn cứ xác lập quyền dân sự trong quan hệ hứa thưởng (Điều 570 BLDS năm 2015) và thi có giải (Điều 573 BLDS năm 2015).

Bộ luật dân sự không có lý giải thế nào là hành vi pháp lý đơn phương, tuy nhiên dựa trên góc nhìn khoa học và theo lao lý của Điều 116 về “ Giao dịch dân sự ” thì hoàn toàn có thể hiểu hành vi pháp lý đơn phương là hoạt động giải trí bộc lộ ý chí của một bên nhằm mục đích phát sinh, đổi khác hoặc chấm hết quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm dân sự mà không phụ thuộc vào vào ý chí của bên kia. Hành vi pháp lý đơn phương chỉ được coi là thanh toán giao dịch dân sự khi chủ thể của hành vi đó chấm hết quyền dân sự của mình đồng thời lại nhằm mục đích phát sinh quyền dân sự hoặc nghĩa vụ và trách nhiệm dân sự ở chủ thể khác mà có mối liên hệ nhân quả đến hành vi pháp lý đơn phương đó. Quyền dân sự được biểu lộ ở căn cứ xác lập “ hành vi pháp lý đơn phương ” biểu lộ như sau : Người có hành vi pháp lý đơn phương phải là người có quyền nào đó, và khi thực thi hành vi của mình là đang trao cho người khác quyền dân sự của mình và cũng làm phát sinh nghĩa vụ và trách nhiệm của người được nhận. 

2.3. Quyết định của toà án cơ quan có thẩm quyền.

Trong pháp luật dân sự, căn cứ xác lập quyền dân sự có thể là Quyết định của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác theo quy định của luật hoặc thời hạn. Thời hạn là sự kiện pháp lý đặc biệt do pháp luật dân sự quy định mà một chủ thể có thể: được hưởng quyền dân sự, được miễn trừ nghĩa vụ dân sự hoặc bị mất quyền khởi kiện. Với ý nghĩa này, trong nhiều trường hợp thời hạn là sự kiện pháp lý có ý nghĩa làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự.

Xác lập quyền dân sự còn có thể theo những căn cứ riêng biệt. Đó là, ngoài những căn cứ có tính phổ biến, quyền dân sự (thậm chí quyền sở hữu) còn có thể được xác lập theo những căn cứ riêng biệt khác theo quy định của pháp luật dân sự. Đó chính là các bản án, quyết định của Tòa án (gồm cả quyết định hòa giải thành) hoặc các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều 235 BLDS năm 2015 quy định: “Quyền sở hữu có thể được xác lập căn cứ vào bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác”.

2.4. Kết quả của lao động, sản xuất, kinh doanh; kết quả của hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ.

Kết quả của lao động, sản xuất, kinh doanh; kết quả của hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ vừa là khách thể của giao dịch dân sự, vừa là căn cứ xác lập quyền dân sự. Con người cần tạo ra của cải vật chất để thỏa mãn các nhu cầu của mình, bên cạnh đó cũng tạo ra các giá trị tinh thân, các sản phẩm trị tuệ để phục vụ nhu cầu tinh thần cũng như phục vụ cho quá trình sản xuất vật chất.

Khoa học, kỹ thuật, công nghệ là thành tố của lực lượng sản xuất, trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, là động lực quan trọng của sản xuất xã hội. Lao động sáng tạo là lao động đặc biệt và kết quả của quá trình sáng tạo được thể hiện dưới các dạng như các tác phẩm văn học, các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,…

Căn cứ xác lập này chủ yếu là xác lập quyền của chủ sở hữu đối với tài sản mình làm ra, đó là các quyền được pháp luật ghi nhận về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt. Đây là căn cứ xác lập quyền dân sự điển hình và ít khả năng tranh chấp (trừ quyền sở hữu trí tuệ).

2.5. Chiếm hữu tài sản.

Chiếm hữu tài sản là một trong những căn cứ khá phổ biến để xác lập quyền dân sự. Điều 186 BLDS năm 2015 quy định cụ thể quyền chiếm hữu của chủ sở hữu: “Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, chi phối tài sản của mình nhưnkhông được trái pháp luật, đạo đức xã hội”.

Ngoài quyền chiếm hữu của chủ sở hữu, thì người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản, người được chủ sở hữu giao tài sản cho người khác thông qua giao dịch dân sự mà nội dung không bao gồm việc chuyển quyền sở hữu; được giao tài sản có quyền sử dụng tài sản được giao, được chuyển quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản đó cho người khác nếu được chủ sở hữu đồng ý… thì người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản phải thực hiện việc chiếm hữu tài sản đó phù hợp với mục đích, nội dung của giao dịch.

Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong trường hợp sau đây: (Theo Điều 165)

– Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;

– Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản;

– Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật;

– Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan;

– Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan;…

Thông thường, người chiếm hữu tài sản có căn cứ pháp luật sẽ được hưởng các quyền từ tài sản mang lại, như quyền được sử dụng, khai thác để sản sinh hoa lợi, lợi tức.

2.6. Sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.

Theo nguyên lý trao đổi ngang giá của pháp luật dân sự, thì đa phần quan hệ dân sự phát sinh được phát sinh trên cơ sở hợp đồng – một căn cứ phổ biến làm phát sinh quan hệ dân sự. Vì vậy, khoản 1 Điều 579 BLDS năm 2015 quy định: “Người chiếm hữu, người sử dụng tài sản của người khác mà không có căn cứ pháp luật thì phải hoàn trả cho chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản đó; nếu không tìm được chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản thì phải giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.

Tương tự, khoản 2 Điều 579 BLDS năm 2015 quy định: “Người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật làm cho người khác bị thiệt hại thì phải hoàn trả khoản lợi đó cho người bị thiệt hại”. Như vậy, người chiếm hữu, người sử dụng tài sản của người khác mà không có căn cứ pháp luật; người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật làm cho người khác bị thiệt hại sẽ là căn cứ xác lập quyền yêu cầu hoàn trả cho chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản đó theo quy định của pháp luật trong quan hệ dân sự này.

Tuy nhiên, Điều 236 BLDS năm 2015 quy định: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.

Như vậy, khi người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đáp ứng các điều kiện trên đây được pháp luật công nhận quyền sở hữu thì không phát sinh quyền yêu cầu hoàn trả đối với chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản đó.

2.7. Bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật.

Nếu như khi một người thực hiện một hành vi trái pháp luật xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của người khác thì người gây thiệt hại có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra cho phía bên kia, thì người nhận bồi thường là người có quyền trong một quan hệ pháp luật dân sự.

Về mặt nội dung, quan hệ bồi thường thiệt hại được xác định là một nghĩa vụ dân sự vì trong đó có thể hiện quá trình dịch chuyển lợi ích vật chất từ chủ thể này sang chủ thể kia. Căn cứ xác lập quyền của người bị thiệt hại trong mối tương quan với nghĩa vụ bồi thường của bên gây thiệt hại, tức là người bị thiệt hại sẽ được nhận một khoản vật chất từ phía người gây thiệt hại.

2.8. Thực hiện công việc khôn g được uỷ quyền.

Thông thường các chủ thể chỉ thực hiện công việc của người khác khi được ủy quyền, tuy nhiên, trên thực tế có khi vì lợi ích của người có công việc thì chủ thể khác buộc phải làm công việc không được ủy quyền và sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với người thực hiện công việc và cả người có công việc được thực hiện. Lúc này, các bên phải có trách nhiệm với nhau về việc thanh toán chi phí bỏ ra để thực hiện công việc, thanh toán tiền công thực hiện công việc… theo các quy định của BLDS năm 2015.

2.9. Căn cứ khác do pháp luật quy định.

Ngoài những sự kiện pháp lý có tính chất khách quan kể trên, do quan hệ dân sự đa dạng, phong phú nên còn có những sự kiện mang tính chất chủ quan. Có điều này là do sự phức tạp của các quan hệ dân sự trong đời sống xã hội mà các nhà làm luật chưa thể dự liệu ngay được, chẳng hạn do khoa học công nghệ phát triển nên các căn cứ xác lập quyền trong sở hữu trí tuệ, lĩnh vực công nghệ thông tin.

Để những quyền dân sự được xác lập được pháp luật dân sự bảo hộ, thì quy định có tính chất “mở” này là cần thiết. Vì vậy, khoản 3 Điều 8 BLDS năm 2015 vẫn kế thừa các bộ luật trước đó và quy định: “Những căn cứ khác do pháp luật quy định”.

Căn cứ khác do pháp luật quy định cũng là căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ theo quy định tại khoản 6 Điều 275 BLDS năm 2015.