Mục lục bài viết
- 1. Chứng cứ trong tố tụng dân sự là gì?
- 2. Quy định của pháp luật về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
- 3. Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
- 4. Thành phần phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
- 5. Các vấn đề cần làm rõ tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
1. Chứng cứ trong tố tụng dân sự là gì?
Nghiên cứu chứng cứ, đánh giá chứng cứ theo quy định tại Điều 93 và Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) phải bảo đảm tính khách quan, toàn diện đầy đủ, chính xác, sự liên quan giữa các chứng cứ và khảng định tính hợp pháp, tính liên quan, giá trị chứng minh của từng chứng cứ, có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi lẽ, tất cả các hoạt động tố tụng dân sự đều phải đi đến kết luận về giá trị chứng minh của chứng cứ, trên cơ sở đó mới có thể kết luận về vụ án, vụ việc dân sự.
Theo Từ điển tiếng Việt, của Nhà xuất bản Khoa học xã hội, xuất bản năm 1988 thì chứng cứ là “cái cụ thể (như lời nói hoặc việc làm, vật làm chứng, tài liệu, ...) tỏ rõ điều gì đó là có thật”.
Như vậy, có thể hiểu chứng cứ (theo một nghĩa chung nhất) là những gì có thật, phản ánh sự thật khách quan về một vụ việc và được thu thập theo trình tự nhất định do pháp luật quy định.
2. Quy định của pháp luật về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
Theo quy định của BLTTDS 2015 thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có nhiệm vụ và quyền hạn tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải (Khoản 7 Điều 48 BLTTDS) trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Khi các bên không hòa giải được thì vụ án sẽ được đưa ra xét xử, đây có thể coi là bước cuối cùng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án. Vì vậy trước khi tiến hành mở phiên họp kiểm tra và phiên hòa giải, Thẩm phán cần phải hoàn tất các nhiệm vụ của mình để làm sáng tỏ nội dung vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
Việc tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải là bắt buộc tuy nhiên trong một số trường hợp Thẩm phán không tiến hành mở phiên hòa giải đối với những yêu cầu đòi bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài sản nhà nước; Những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái với đạo đức xã hội (Điều 206 BLTTDS). Hoặc những vụ án không tiến hành hòa giải được do: Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt; Đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng; Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự; Một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải (Điều 207 BLTTDS). Phiên hòa giải giữa các đương sự có thể sẽ không được diễn ra nhưng phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ phải được Thẩm phán tổ chức.
3. Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải được quy định tại Điều 208 BLTTDS
Trước khi mở phiên họp kiểm tra và phiên hòa giải, Thẩm phán được giao nhiệm vụ giải quyết vụ án phải thông báo cho đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về thời gian, địa điểm tiến hành phiên họp và nội dung của phiên họp. Tuy nhiên, BLTTDS không quy định cụ thể thời gian, địa điểm để tiến hành mở phiên họp, số lượng phiên họp vì vậy Thẩm phán có thể tổ chức phiên họp vào bất cứ thời điểm nào trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sau khi Thẩm phán cho rằng tài liệu chứng cứ đã đầy đủ, nội dung quan hệ tranh chấp đã được xác định rõ… Về địa điểm tiến hành mở phiên họp sẽ được tổ chức tại trụ sở Tòa án nơi giải quyết vụ án. Trong một số trường hợp cần thiết hoặc để tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự Thẩm phán có thể tổ chức phiên họp ngoài trụ sở Tòa án, cũng giống với việc thu thập lấy lời khai ngoài trụ sở thì phiên họp cần phải có sự chứng kiến và xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi lập biên bản. Nội dung biên bản phiên họp được thực hiện theo Điều 211 BLTTDS. Thẩm phán có thể mở một phiên họp duy nhất (khi có đủ điều kiện theo quy định), hoặc mở nhiều phiên họp (khi xét thấy các bên có thể hòa giải được) tuy nhiên số lượng phiên họp cần được tổ chức hợp lý để không làm mất nhiều thời gian công sức của đương sự.
Thông báo về nội dung phiên họp kiểm tra: Thẩm phán cần thông báo tới đương sự các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; phạm vi yêu cầu của các đương sự… để đương sự chủ động hơn trong việc tự mình thu thập tài liệu, giao nộp bổ sung chứng cứ, đề nghị Tòa án tiến hành xác minh thu thập thêm chứng cứ hoặc sửa đổi bổ sung, rút yêu của mình tại phiên họp.
Thông báo về nội dung phiên hòa giải: Thẩm phán cần phải nêu cụ thể nội dung các vấn đề cần hòa giải giữa các đương sự. Nội dung này cần phải đầy đủ rõ ràng những vấn đề mà các bên đã thống nhất, vấn đề các bên chưa thống nhất được xác định trong quá trình lấy lời khai và nghiên cứu hồ sơ tài liệu của Thẩm phán.
4. Thành phần phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
Thành phần phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải được quy định tại Điều 209 BLTTDS.
Thành phần tham dự phiên họp bao gồm: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án chủ trì phiên họp, thư ký ghi biên bản, các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (nếu có), người phiên dịch (nếu có). Hoặc trong trường hợp cần thiết Thẩm phán có thể yêu cầu cá nhân, cơ quan tổ chức có liên quan tham gia phiên họp là những người được tín nhiệm, có chuyên môn, nhiều kinh nghiệm liên quan tới nội dung tranh chấp mà khi họ tham gia phiên hòa giải sẽ đạt hiệu quả hơn. Tuy nhiên vì họ không phải là đương sự trong vụ án nên Thẩm phán vẫn phải tiến hành hòa giải khi họ vắng mặt.
Sự có mặt, vắng mặt của các đương sự tại phiên họp.
Các đương sự phải tham gia phiên họp theo thông báo của Tòa án. Trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ, không tiến hành phiên hòa giải (thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được) và thông báo kết quả phiên họp cho đương sự vắng mặt.
Trong vụ án có nhiều đương sự mà có đương sự vắng mặt, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành phiên họp và việc tiến hành phiên họp đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành phiên họp giữa các đương sự có mặt. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự vắng mặt đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, Thẩm phán phải mở lại phiên họp và thông báo nội dung phiên họp trước đó cho đương sự.
Trong trường hợp, các đương sự đề nghị hoãn phiên hòa giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên họp và thông báo việc hoãn và thời gian mở lại phiên họp cho đương sự (Thời gian mở lại không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử).
5. Các vấn đề cần làm rõ tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
Nội dung của Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ gồm: 03 nội dung chính là kiểm tra việc giao nộp chứng cứ, quyền được biết và tiếp cận tài liệu chứng cứ của các đương sự, việc công khai các tài liệu chứng cứ của Tòa án.
– Giao nộp tài liệuchứng cứ cho Tòa án: Là quyền và cũng là nghĩa vụ của đương sự để chứng minh cho yêu cầu của mình. Kiểm tra việc giao nộp tài liệu chứng cứ là việc xem xétcác chứng cứ được các đương sự giao nộp cho Tòa án có đầy đủ, hợp lệ hay không. Tài liệu chứng cứ có thể do các đương sự tự mình thu thập hoặc các văn bản thể hiện quan điểm của mình về nội dung vụ án… Khi giao nộp Tòa án phải lập biên bản về việc giao nộp tài liệu chứng cứ theo quy định tại Điều 96 BLTTDS.
– Kiểm tra việc tiếp cận chứng cứ: Là việc các đương sự có quyền được biết, được ghi chép, được sao chụp tài liệu trong hồ sơ (khoản 8 Điều 70); Được thông báo về những tài liệu mà Tòa án thu thập được (khoản 5 Điều 97). Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác (khoản 5 Điều 96) trên thực tế rất ít khi đương sự thực hiện nghĩa vụ này và cũng rất khó để xác minh được họ đã thực hiện đầy đủ hay không, trong khi BLTTDS không quy định cụ thể việc thực hiện cũng như hậu quả pháp lý của việc không thực hiện nghĩa vụ sao gửi tài liệu cho những đương sự khác. Kiểm tra việc tiếp cận chứng cứ nhằm giúp các đương sự biết được các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào đó thể đưa ra những lập luận để chứng minh cho yêu cầu của mình.
– Kiểm tra việc công khai tài liệu của Tòa án: Các tài liệu chứng cứ mà Tòa án đã thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án như: Biên bản lấy lời khai, đối chất của các đương sự, kết quả trưng cầu giám định, định giá tài sản, xem xét thẩm định tại chỗ (nếu có)… và tài liệu chứng cứ khác do đương sự giao nộp phải được Tòa án công khai. Từ đó đương sự có thể yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập thêm tài liệu chứng cứ hoặc giao nộp thêm tài liệu chứng cứ cho Tòa án nếu thấy cần thiết hoặc yêu cầu Tòa án công khai tài liệu chứng cứ đương sự đã giao nộp nhưng không được công khai (trừ những tài liệu không được công khai) mà không có trong hồ sơ vụ án.
Nội dung Phiên hòa giải: Hòa giải là việc các đương sự tự thống nhất với nhau về việc giải quyết toàn bộ hoặc một số vấn đề trong vụ án qua đó làm rõ yêu cầu của đương sự, căn cứ mà các bên đưa ra để chứng minh cho yêu cầu của mình, những ý kiến đối đáp của các bên để làm sáng tỏ nội dung tình tiết trong vụ án… Kết quả của Phiên hòa giải còn mang ý nghĩa làm rõ yêu cầu, các tình tiết, quan hệ tranh chấp, những vấn đề các bên đã thống nhất và chưa thống nhất giúp cho Hội đồng xét xử giải quyết vụ án đúng đắn trong trường hợp phải mở phiên tòa xét xử, từ đó nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của Tòa án.