1. Cơ chế bảo vệ quyền con người

Trong các tài liệu về quyền con người ở Việt Nam hiện nay, mặc dù khái niệm Cơ chế bảo đảm quyền con người được nhắc đến khá nhiều, nhưng đỊnh nghĩa thế nào là cơ chế đảm bảo quyền con người lại ít được đề cập đến. Từ “cơ chế” là chuyển ngữ của từ mécanisme của phương Tây. Từ điển Le Petit Larousse (1999) giải nghĩa “mécanisme” là “cách thức hoạt động của một tập hợp các yếu tố” phụ thuộc vào nhau”. Còn Từ điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học 1996) giải nghĩa “cơ chế” là “cách thức theo đó một quá trình thực hiện”. Theo một số tài liệu thì cụm từ “cơ chế của Liên hợp quốc về quyền con người” (United Nations human rights mechanism) hay được sử dụng trong các tài liệu chuyên môn để chỉ bộ máy các cơ quan chuyên trách và hệ thống các quy tắc, thủ tục có liên quan do Liên hợp quốc thiết lập để thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người.

2. Nội dung của cơ chế bảo vệ quyền con người

Từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy rằng, khi nói đến “Cơ chế đảm bảo quyền con người” bản thân cụm từ này bao hàm hai nội dung cơ bản:

Khi nói đến “Cơ chế đảm bảo quyền con người” bản thân cụm từ này bao hàm hai nội dung cơ bản:

Thứ nhất, đó là những nguyên tắc, phương thức, cách thức, quy tắc, thủ tục, v.v... để thúc đẩy và đảm bảo quyền con người.

Thứ hai, đó là các yếu tố, bộ phận, v.v... tham gia vào việc thúc đẩy và đảm bảo quyền con người.

Đối với nội dung thứ nhất, do quyền con người phong phú, đa dạng và không kém phần phức tạp, do đó để thúc đẩy và đảm bảo quyền con người cần có những nguyên tắc, quy tắc, cách thức khác nhau. Hoặc nói cách khác, với mỗi cơ chế đảm bảo quyền con người khác nhau, lại có những cách thức, nguyên tắc, quy tắc khác nhau.Các nguyên tắc, quy tắc khác nhau này góp phần đảm bảo, thúc đẩy quyền con người ở một phương diện khác nhau.

Mặt khác, các nguyên tắc, quy tắc, biện pháp, cách thức đảm bảo quyền con người thì vô cùng phong phú, đa dạng, bỗi nó còn phụ thuộc vào các chủ thể khác nhau. Các nguyên tắc, quy tắc này quy định tính chất, đặc trưng của các cơ chế bảo đảm quyền con người. Chẳng hạn, nguyên tắc kiểm tra, thanh tra, giám sát; nguyên tắc phối hợp; nguyên tắc đối thoại; nguyên tắc hợp tác quốc gia, khu vực và quốc tế, v.v... sẽ quy định nên cơ chế kiểm tra, thanh tra, giám sát, cơ chế phối hợp, cơ chế đối thoại, v.v... Nếu như nói, các chủ thể đảm bảo quyền con người đóng vai trò là những điều kiện cần, thì các nguyên tắc, quy tắc là điều kiện đủ.

Các nguyên tắc, quy tắc là nhân tố cấu thành quan trọng của các cơ chế bảo đảm quyền con người, tính hiệu quả của việc đảm bảo, thúc đẩy quyền con người phụ thuộc nhiều vào các nguyên tắc, quy tắc này.

Đối với nội dung thứ hai, có rất nhiều yếu tố, bộ phận tham gia vào quá trình hình thành và hoạt động của các cơ chế bảo đảm quyền con người, chẳng hạn: đó là các yếu tố của hệ thống chính trị như: Đảng, Quốc hội, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, v.v... Ngoài ra, còn có các hiệp hội, tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc, Cộng đồng châu Âu, Hiệp hội ASEAN, v.v...

Các chủ thể đảm bảo quyền con người trong phạm vi quốc gia bao gồm các yếu tố của hệ thống chính trị như: Đảng, Quốc hội, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, v.v... thông qua các nguyên tắc, cách thức, quy tắc (bao gồm cả hệ thống pháp lý, các chính sách, v.v...) để đảm bảo và thúc đẩy quyền con người. Nhưng đây không phải là quá trình tác động đơn chiều, bản thân quyền con người trong tính phong phú, đa dạng của nó cũng có sự tác động trở lại đồi với những cách thức, nguyên tắc, quy tắc và các chủ thể đảm bảo quyền con người. Do đó, trong quá trình phát triển của quyền con người, các nguyên tắc, cách thức, quỹ tắc đảm bảo, thúc đẩy quyền con người cũng phải có sự điều chỉnh cho phù hợp theo.

3. Tác động của chính phủ đến các cơ chế bảo đảm quyền con người

Là một trong những chủ thể của quyền con người, Chính phủ đóng vai trò đầu tiên và quan trọng nhất trong việc đảm bảo và thúc đẩy quyền con người. Là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất, hoạt động của chính phủ có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến việc đảm bảo, thúc đẩy và phát triển quyền tự do dân chủ của công dân. Có quan điểm cho rằng, cơ chế đảm bảo nhân quyền, xét cho cùng, trách nhiệm trước tiên thuộc về Chính phủ, cụ thể là các cơ quan trong bộ máy nhà nước, của cán bộ, công chức nhà nước.

Vai trò của Chính phủ trong việc thúc đẩy và đảm bảo quyền con người thể hiện ở chỗ, trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật do Quốc hội xây dựng; những chủ trương, định hướng lớn xây dựng và phát triển đất nước, Chính phủ xây dựng các cơ chế, chính sách, biện pháp, chương trình... trên các phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục, y tế, tôn giáo, dân tộc, v.v... để đảm bảo quyền con người. Chẳng hạn như: xây dựng cơ chế phối hợp giữa các bộ ban ngành nhằm đảm bảo quyền con người, xây dựng cơ chế khu vực về đảm bảo quyền con người; Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính tận tâm phục vụ nhân dân là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với vấn đề bảo vệ quyền con người; xây dựng các chiến lược tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về quyền con người...

4. Tổ chức thi hành pháp luật có các đặc trưng gì?

Tổ chức thi hành pháp luật có các đặc trưng sau đây:

- Tổ chức thi hành pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức đưa pháp luật thực định vào đời sống nhà nước và đời sống xã hội, làm cho pháp luật sau khi ban hành có hiệu lực thực thi trong thực tế. Thi hành pháp luật theo lý luận chung về nhà nước và pháp luật, là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng các hoạt động tích cực. Như vậy, tổ chức thi hành pháp luật có một trong những nội dung quan trọng là tổ chức để các chủ thể tuân theo các các nghĩa vụ pháp lý của mình bằng các hành động tích cực trong thực tế; góp phần làm cho xã hội thượng tôn pháp luật mang tính chất tự giác.

- Tổ chức thi hành pháp luật theo nghĩa rộng là trách nhiệm của tất cả các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền thuộc các nhánh quyền lực nhà nước từ lập pháp, hành pháp, tư pháp đến các thiết chế Hiến định khác. Tuy nhiên, tổ chức thi hành pháp luật với tư cách là một thẩm quyền độc lập, chuyên trách được Hiến pháp giao cho hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện. Theo đó, có thể định nghĩa, tổ chức thi hành pháp luật là thẩm quyền hiến định có tính độc lập, chuyên trách của hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước nhằm đưa pháp luật trên các trang công báo trở thành các hành động tích cực tuân theo pháp luật trong đời sống nhà nước, đời sống xã hội.

5. Vai trò của Chính phủ theo Hiến pháp 2013

Hiến pháp năm 2013 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là “Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp luật, nghị quyết của UBTVQH, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước” (khoản 1 Điều 96), Thủ tướng Chính phủ có nhiệm vụ: “Lãnh đạo tổ chức thi hành pháp luật” (khoản 1 Điều 98); Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ có nhiệm vụ: “Tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnhvực trong phạm vi toàn quốc” (khoản 1 Điều 99); Chính quyền địa phương có nhiệm vụ: “Tổ chức đảm bảo việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương” (khoản 1 Điều 112); và Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp có nhiệm vụ: “Tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương” (khoản 2 Điều 114). Thi hành pháp luật trong thuật ngữ “tổ chức thi hành pháp luật” của Hiến pháp năm 2013, theo chúng tôi, có nội dung rất rộng, không chỉ là một hình thức thực hiện pháp luật mà còn bao gồm các hình thức thực hiện pháp luật khác như: tuân thủ pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật mà lý luận về thực hiện pháp luật đã được viết trong các sách giáo khoa về lý luận nhà nước và pháp luật đang giảng dạy ở các trường đại học luật. Với quan niệm đó, “tổ chức thi hành pháp luật” viết trong Hiến pháp năm 2013 được hiểu là “tổ chức thực hiện pháp luật” (thi hành pháp luật ở đây chính là thực hiện pháp luật). Vì vậy “tổ chức thi hành pháp luật” viết trong Hiến pháp năm 2013 được hiểu theo nghĩa rộng, đồng nghĩa với tổ chức thực hiện pháp luật, tức là bao gồm tổ chức thực hiện cả bốn hình thức thực hiện pháp luật chứ không chỉ một hình thức thực hiện pháp luật là thi hành pháp luật.

Vì thế, tổ chức thi hành pháp luật theo Hiến pháp năm 2013 có các đặc trưng cơ bản sau đây:

- Chủ thể tổ chức thi hành pháp luật là Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương và UBND các cấp.

- Mục đích của tổ chức thi hành pháp luật là làm cho các quy định của pháp luật thực hiện trong cuộc sống trở thành những hành động thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Hay nói cụ thể, mục đích của tổ chức thi hành pháp luật là làm cho các chủ thể pháp luật tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng và áp dụng đúng đắn pháp luật. Đó chính là đòi hỏi của nguyên tắc pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền XHCN mà chúng ta đang xây dựng.

- Đối tượng của tổ chức thi hành pháp luật là đối tượng của quản lý nhà nước và được tiến hành trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Như vậy, đối tượng của tổ chức thi hành pháp luật có phạm vi rất rộng; ở đâu có quản lý nhà nước ở đó có việc tổ chức thi hành pháp luật. Chính vì thế, tổ chức thi hành pháp luật là nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, là thẩm quyền của các cơ quan thực hiện quyền hành pháp.

- Nội dung của tổ chức thi hành pháp luật bao gồm một chuỗi các hoạt động kế tiếp nhau, quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, hoạt động trước là tiền đề, là điều kiện quyết định cho hoạt động sau.

LUẬT MINH KHUÊ (Sưu tầm)